Một số vấn đề cần trao đổi trong việc áp dụng Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11/10/2018 của Tòa án nhân dân tối cao

Nguyễn Thành Lâm

       Nhằm phát huy những ưu điểm của việc hòa giải, đối thoại, tham gia cùng Tòa án trong việc giải quyết các mâu thuẫn trong đời sống xã hội, hàn gắn được những rạn nứt, giảm số lượng các vụ, việc phát sinh phải giải quyết bằng xét xử, tiết kiệm được chi phí, thời gian, công sức của đương sự và Nhà nước. Ngày 11/10/2018, TAND tối cao đã ban hành Công văn số 310/TANDTC-PC hướng dẫn về nghiệp vụ hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính.

       Việc ra đời các Trung tâm hòa giải, đối thoại tại 16 đơn vị thuộc TAND hai cấp thành phố Hà Nội giúp giảm tải cho công tác xét xử của Tòa án. Số lượng vụ việc Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự của Viện KSND thành phố Hà Nội, cụ thể là các Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự trong vụ việc Hôn nhân gia đình còn có một số vấn đề cần trao đổi thông qua vụ việc cụ thể sau đây:

       Tại đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn ngày 27/12/2018, chị Nguyễn Thị K và anh Doãn Văn T đăng ký kết hôn ngày 20/3/2002 tại UBND phường D, quận C, TP Hà Nội trên cơ sở tự nguyện có tìm hiểu nhau. Trước khi kết hôn chưa ai có vợ, có chồng. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung tại khu đô thị 5,3 ha phường D, quận C, TP Hà Nội.

       Vợ chồng chung sống hạnh phúc từ khi kết hôn đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng không hòa hợp về quan điểm sống, thường xuyên cãi vã nhau. Ngày 28/12/2018, chị K và anh T gửi đơn yêu cầu đến Tòa án quận C, TP Hà Nội giải quyết:

       Về tình cảm: Chị K và anh T xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc nên cùng yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn.

       Về con: Vợ chồng có 02 con chung: là cháu Doãn Văn P (SN 2007) và cháu Doãn Hoài N (SN 2010). Chị K nuôi cháu P còn anh T nuôi cháu N. Không bên nào phải đóng góp tiền nuôi con.

       Về tài sản chung và nợ chung:  Không có tài sản chung, không vay nợ ai, không cho ai vay nợ. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

       Ngày 28/12/2018, Trung tâm hòa giải thuộc TAND quận C, TP Hà Nội tiến hành hòa giải để chị K và anh T đoàn tụ nhưng chị K, anh T không rút đơn yêu cầu, đề nghị Trung tâm hòa giải ghi nhận sự thỏa thuận trên. Do vậy, Trung tâm hòa giải lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành và biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn, thỏa thuận nuôi con, tài sản; các vấn đề khác và chuyển cho TAND quận C, TP Hà Nội thụ lý để ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn.

       Ngày 04/01/2019, TAND quận C thụ lý số 09/2019/TLST/HNGĐ về yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn.

       Ngày 05/01/2019, TAND quận C căn cứ vào Điều 149, Điều 212 và Điều 213, khoản 4 Điều 397 của BLTTDS năm 2015; Điều 55; Điều 81; Điều 82, điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Công văn số 310/TANDTC-PC để ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự.

       Tuy nhiên, khi Tòa án ban hành Quyết định trên, có hai quan điểm khác nhau:

      1. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo mục 3 Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11-10-2018 của TAND tối cao hướng dẫn:

       “Hòa giải viên thông báo cho Giám đốc Trung tâm, chuyển hồ sơ vụ việc và các biên bản cho Tòa án xem xét, nếu hồ sơ đầy đủ theo quy định tại Chương XXVIII của BLTTDS thì Thẩm phán (đã được phân công tham gia chứng kiến và ký tên vào các biên bản) thụ lý ngay việc dân sự. Sau khi thụ lý, Thẩm phán kiểm tra hồ sơ nếu xét thấy việc thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập các biên bản mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả thuận đó thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 212 BLTTDS (Thẩm phán không tiến hành hòa giải lại)”.

       Như vậy, theo hướng dẫn trên thì ngày 28/12/2018, Trung tâm hòa giải thuộc TAND quận C, TP Hà Nội lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành và biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn, thỏa thuận nuôi con, tài sản và các vấn đề khác. Ngày 04/01/2019, TAND quận C thụ lý đến ngày 05/01/2019 ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự là đúng quy định.

      2. Quan điểm thứ hai cho rằng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 212 BLTTDS năm 2015 thì ngày 04/01/2019, TAND quận C thụ lý đến ngày 05/01/2019 Tòa án ra Quyết định là chưa đủ 07 ngày. Do vậy, TAND quận C ban hành Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự là không đúng.

       Nghiên cứu các quy định của BLTTDS năm 2015, tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai với các lý do sau:

       Khoản 1 Điều 205 BLTTDS 2015 quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải… trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được”.

       Điều 10 BLTTDS 2015 quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.

       Và theo khoản 2 Điều 397 BLTTDS năm 2015 thì: “Thẩm phán phải tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ; giải thích về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha, mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình, về trách nhiệm cấp dưỡng và các vấn đề khác liên quan đến hôn nhân và gia đình”.

       Căn cứ vào các quy định trên thì hòa giải được Tòa án tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử - là một giai đoạn của tố tụng dân sự. Như vậy, TAND quận C ra quyết Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự căn cứ vào biên bản hòa giải của Trung tâm hòa giải là không đúng. Bởi Biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, Biên bản thuận tình ly hôn, thỏa thuận việc nuôi con, chia tài sản khi ly hôn do Hòa giải viên được lập tại Trung tâm hòa giải ngày 28/12/2018 không nằm trong giai đoạn thủ tục tố tụng dân sự. Tư cách của Thẩm phán tham gia ký tên vào Biên bản hòa giải tại Trung tâm chỉ là người chứng kiến chứ không phải là người chủ trì theo như quy định tại Điều 212 của BLTTDS năm 2015.

       Ngoài ra, Quyết định công nhận sự thỏa thuận của TAND quận C ban hành không đúng về thời hạn ra Quyết định theo quy định tại Khoản 2 Điều 147 và Khoản 1, khoản 5 Điều 148 BLDS năm 2015; khoản 1 Điều 212 BLTTDS năm 2015.

       Khoản 2 Điều 147 BLDS quy định: “…Khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính từ ngày tiếp theo liền kề ngày được xác định”.

       Khoản 1 Điều 148 BLDS quy định: “Khi thời hạn tính bằng ngày thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn”.

       Khoản 5 Điều 148 BLDS quy định: “Khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó”.

       Tại khoản 1 Điều 212 BLTTDS quy định: “Hết thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm  phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công phải ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự....”.

       Như vậy, ngày 04/01/2019 là ngày thứ sáu TAND quận C thụ lý. Ngày 05/01/2019 - Thứ bảy, Tòa án ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự là vi phạm các quy định trên.

       Mặt khác, theo tác giả thì Công văn số 310/TANDTC-PC không phải là văn bản quy phạm pháp luật, chỉ có ý nghĩa để các tòa nghiên cứu, tham khảo trong triển khai thí điểm về nghiệp vụ hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính. TAND quận C áp dụng Công văn số 310/TANDTC-PC để ban hành Quyết định là không đúng.

       Qua phân tích và dẫn chứng vụ việc cụ thể như trên tác giả thấy cần thiết phải nêu lên để cùng trao đổi để việc áp dụng pháp luật được thống nhất bảo đảm  mọi hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án được thực hiện đúng theo các quy định của BLDS và BLTTDS năm 2015.

Ths.Lê Thị Hồng Hạnh - Phòng 9

Bài viết trước Giao dịch dân sự và điều kiện có hiệu lực của giao dich dân sự theo quy định pháp luật hiện hành
Bài viết tiếp theo Bàn về Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
In
2951 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều