MỘT SỐ KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT ÁN HÀNH CHÍNH, KDTM THEO LUẬT TTHC, BỘ LUẬT TTDS, BLDS NĂM 2015

Huỳnh Phương Linh

Ngày 25/11/2015, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 103/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết một số vụ án liên quan đến Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính đang gặp phải một số khó khăn, vướng mắc cụ thể như sau:
I. Đối với Luật Tố tụng hành chính.
 Vướng mắc về thẩm quyền giải quyết vụ án:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Nghị quyết số 104/2015/QH13 thì: “Đối với những vụ án hành chính đã được Tòa án xét xử theo thủ tục sơ thẩm trước ngày 01/07/2016 mà có kháng cáo, kháng nghị nhưng kể từ ngày 1/7/2016 mới xét xử theo thủ tục phúc thẩm thì áp dụng quy định của Luật này để giải quyết”.
Đối với quy định trên, cụ thể đối với những vụ án hành chính khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thì thực tiễn giải quyết có hai ý kiến khác nhau:
* Quan điểm thứ nhất: Nếu từ ngày 01/07/2016 mới xét xử theo thủ tục phúc thẩm mà hủy án sơ thẩm thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm là Tòa án cấp tỉnh. Quan điểm này cho rằng Tòa án cấp tỉnh hủy án sơ thẩm và giữ lại luôn ở cấp tỉnh để giải quyết mới phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 32 về thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.
Khoản 4 Điều 32 quy định: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án”.
* Quan điểm thứ hai: Nếu hủy án sơ thẩm thì giao về cho Tòa án cấp huyện giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm bởi liên quan đến việc thụ lý vụ án. Những vụ án này được thụ lý và xét xử sơ thẩm trước ngày 01/07/2016 do có kháng cáo, kháng nghị, do đó thời điểm xét xử phúc thẩm sau ngày 01/07/2016. Nếu trường hợp hủy án giao về cấp huyện giải quyết lại mà áp dụng quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 sẽ không phù hợp bởi sai về thẩm quyền theo quy định tại khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Quan điểm cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất bởi nếu liên quan đến vấn đề thụ lý như quan điểm thứ hai thì cấp sơ thẩm chỉ cần đánh dấu vụ án được chuyển lên cấp tỉnh giải quyết theo thẩm quyền, đồng thời xóa tên vụ án trong sổ thụ lý.
II. Khó khăn, vướng mắc trong áp dụng Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trong thực tiễn xét xử các vụ án kinh doanh thương mại về tranh chấp hợp đồng tín dụng liên quan đến việc thế chấp tài sản là bất động sản của bên thứ ba, vấn đề này có một số vướng mắc sau:
* Đối với trường hợp hợp đồng thế chấp là quyền sử dụng đất  và tài sản gắn liền với đất của bên thế chấp đem thế chấp để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên nhận thế chấp.
Trong quá trình giải quyết vụ án mới phát hiện quyền sử dụng đất của cả hộ gia đình và việc Ủy ban nhân dân huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân người đó là không đúng quy định của pháp luật.
Lúc này người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là thành viên trong hộ gia đình mới có yêu cầu độc lập đề nghị tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu theo Điều 132, Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015 (thời hiệu khởi kiện vẫn còn). Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng thế chấp vô hiệu và không giải quyết hậu quả của hợp đồng thế chấp vô hiệu.
Thực tiễn xét xử việc giải quyết hậu quả của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu là vấn đề hết sức khó khăn hiện nay bởi: theo quy định tại Điều 131, Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất lúc này Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ngân hàng giữ và ngân hàng là bên thứ ba ngay tình không thể biết việc Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp sổ đỏ không đúng quy định của pháp luật. Và nếu theo quy định về giao dịch dân sự vô hiệu thì ngân hàng phải trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên thế chấp và coi như khoản vay không có tài sản đảm bảo.
Mặt khác, tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu: “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu”.
Luật quy định như vậy nhưng nếu bảo vệ người thứ ba ngay tình là ngân hàng thì lúc này xảy ra hai trường hợp:
- Thứ nhất, ngân hàng có quyền phát mại tài sản là quyền sử dụng đất của người thế chấp để thu hồi nợ, nhưng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại cấp sai, không có giá trị pháp lý dẫn đến tài sản phát mại không hợp pháp.
- Thứ hai, đưa Ủy ban nhân dân huyện đã cấp sai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền và nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân huyện thừa nhận cấp sai Giấy chứng nhận vậy thì giải quyết như thế nào? Ai là người bồi thường cho ngân hàng vì giao dịch dân sự vô hiệu, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có giá trị pháp lý và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân ra sao?
* Liên quan đến nội dung tài sản thế chấp là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng là quyết định cá biệt:
Theo khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức thì: “Khi giải quyết việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nghĩa vụ giải quyết”. Và tại khoản 4 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
Liên quan đến nội dung hủy quyết định các biệt trái pháp luật trong bài viết này là cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mà Giấy chứng nhận này do Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp. Theo khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh thì: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án”.
Như vậy nếu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án lên cấp tỉnh giải quyết theo thẩm quyền và vụ án sẽ bị kéo dài so với quy định của pháp luật.
Với những khó khăn, bất cập như trên, chúng tôi đề nghị liên ngành tư pháp trung ương sớm có văn bản hướng dẫn để việc giải quyết các vụ án hành chính – kinh doanh thương mại đúng theo quy định của pháp luật nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong khâu công tác này, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Trên đây là một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết án Hành chính, KDTM chúng tôi xin trao đổi để các đồng chí đồng nghiệp cùng tham khảo.

Nguyễn Thị Hoa - Hồ Thị Khuyên
Phòng 10 VKSNDTP Hà Nội

 

Bài viết trước Bàn về phương thức nâng cao chất lượng bài phát biểu của KSV tại phiên tòa dân sự, hành chính sơ thẩm
Bài viết tiếp theo VAI TRÒ VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN BỊ BUỘC TỘI
In
1616 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều