Một số dạng vi phạm trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính dẫn tới việc hủy án, sửa án của Kiểm sát viên trên địa bàn thành phố Hà Nội
Trong thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội đã thực hiện tốt công tác phối hợp trong giải quyết án hành chính. Trên cơ sở thực hiện tốt Quy chế phối hợp số 01/QCPH/VKS-TA ngày 11/5/2023 giữa Viện KSND – TAND Thành phố trong việc giải quyết các vụ án Hành chính đã tạo cơ sở để hai ngành tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết, đồng thời chỉ ra những vi phạm, tồn tại thiếu sót để kịp thời khắc phục, qua đó, đảm bảo công tác thụ lý, giải quyết án hành chính đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục pháp luật, hạn chế tình trạng án hủy, án sửa có lỗi của cơ quan tiến hành tố tụng.
Thông qua công tác Kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính cho thấy các dạng vi phạm phổ biến dẫn đến hủy án, sửa án là các trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, vi phạm trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ và áp dung pháp luật. Cụ thể như sau:
1. Vi phạm trong việc xác định quan hệ tranh chấp
Dạng vi phạm này thường xảy ra trong các tranh chấp liên quan đến cho thuê đất, giao thầu khoán đất công ích của UBND cấp xã cho các hộ gia đình:
Ví dụ: Từ năm 2002 đến 2004, ông Nguyễn Thế Đ kí 03 bản hợp đồng kinh tế giao nhận thuê bãi kinh doanh và phát triển sản xuất với UBND xã H tại khu bãi lâm sản, bãi xe thôn Đinh Xuyên, xã H, huyện K. Sau khi tiếp nhận vị trí thuê đất nêu trên, gia đình ông Đ đã tiến hành xây dựng nhà cấp 4 và mua sắm các tài sản khác phục vụ cho việc kinh doanh.
Do việc UBND xã H cho cá nhân thuê đất 15 năm, đồng thời diện tích cho thuê chồng lấn với diện tích hành lang bảo vệ đê điều, UBND huyện K đã thành lập đoàn thanh tra liên ngành của huyện tiến hành thanh tra. Sau khi có kết luận xác minh của đoàn thanh tra, ngày 9/5/2005, UBND huyện K ban hành thông báo kết luận số 18/TB-UB. Thông báo nêu rõ những nội dung phải chấn chỉnh, khắc phục vi phạm của UBND xã H gồm:
+ Xây dựng đề án khắc phục các vi phạm pháp luật về đất đai và đề điều ở bãi đỗ xe và bãi chứa lâm sản xã H để trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. Thời gian xong trước ngày 20 tháng 5 năm 2005;
+ UBND xã ra quyết định đình chỉ toàn bộ việc xây dựng mới của các hộ kinh doanh trên diện tích đất đã ký hợp đồng thuê với UBND xã.
+ Xây dựng quy hoạch sử dụng đất chi tiết tại bãi đỗ xe, bãi chứa lâm sản để trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt. Nếu các hộ kinh doanh còn có nhu cầu thuê đất và phù hợp với quy hoạch được duyệt thì hướng dẫn làm thủ tục ký hợp đồng thuê đất mới theo quy định pháp luật.
Sau khi có Thông báo kết luận số 18/TB-UB nêu trên, UBND xã H đã đình chỉ toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong đó có hộ gia đình ông Đ và đề nghị gia đình chờ phương án giải quyết. Kể từ đó đến năm 2019, gia đình ông Đ không thể sản xuất kinh doanh trên đất đã thuê. Gia đình ông Đ kiến nghị, đề nghị nhiều lần nhưng không được giải quyết. Ngày 25/10/2018, UBND xã H ban hành Thông báo số 108/TB/UBND đối với gia đình ông Đ về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan đến hợp đồng thuê bãi lâm sản xã H. Theo đó UBND xã H yêu cầu gia đình ông Đ nộp số tiền thuê thầu bãi lâm sản để kinh doanh còn nợ là 53.460.000 đồng. Đến ngày 26/12/2019, UBND xã H đã đơn phương thanh lý hợp đồng đối với gia đình ông Đ. Ông Đ cho rằng UBND xã chưa hỗ trợ, bồi thường thỏa đáng thiệt hại và thanh lý tài sản của ông theo đúng quy định pháp luật. Ngày 16/3/2022 ông Đ gửi đơn khởi kiện đến Tòa án, đề nghị Tòa án xét xử buộc UBND xã H phải bồi thường các khoản thiệt hại đã gây ra cho gia đình số tiền là 1.850.000.000 đồng, bao gồm:
+ Tiền đầu tư xây dựng nhà và các công trình phục vụ sản xuất kinh doanh trên các khu đất thuê.
+ Tiền đầu tư máy móc, trang thiết bị sản xuất
+ Các khoản tiền thiệt hại do phải vay vốn đầu tư mà không kỉnh doanh được.
Sau khi nhận đơn khởi kiện, TAND huyện K đã tiến hành thụ lý vụ án và xác định đây là vụ án khiếu kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Ngày 23/3/2023, TAND huyện K ban hành quyết định số 01/2023/QĐST- HC đình chỉ giải quyết vụ án hành chính do đơn khởi kiện của ông Nguyễn Thế Đ thuộc trường hợp thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính đã hết.
Không đồng ý với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, ngày 30/3/2023, ông Đ làm đơn kháng cáo quyết định đình chỉ nói trên.
Sau khi thụ lý vụ việc, ngày 27/11/2023, Tòa án cấp phúc thẩm đã mở phiên họp xét kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính và quyết định:
- Chấp nhận kháng cáo của ông Đ, sửa Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm số 01/2023/QĐST-HC ngày 23/03/2023 của Tòa án huyện K. Cụ thể: đình chỉ giải quyết vụ án hành chính thụ lý số 01/2023/TLST-HC ngày 15/02/2023 do yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thế Đ thuộc tranh chấp dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính.
Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định không đúng quan hệ tranh chấp trong vụ án. Bởi lẽ:
Giữa ông Nguyễn Thế Đ và UBND xã H ký kết 3 hợp đồng kinh tế gồm 2 hợp đồng kinh tế ngày 02/7/2004 và 01 hợp đồng kinh tế ngày 20/12/2002. Theo đó UBND xã H tận dụng số diện tích mặt bằng ở khu bãi đỗ xe, bãi chứa lâm sản giao cho ông Đ thuê để làm dịch vụ và phát triển sản xuất, thời gian thuê là 15 năm (các hợp đồng có thời hạn đến 31/07/2019).
Căn cứ vào hợp đồng, ngày 26/12/2019 UBND xã đã yêu cầu các gia đình có ký hợp đồng trước đây (trong đó có gia đình ông Đ) đến UBND xã để tiến hành ký thanh lý hợp đồng, nhưng do gia đình ông Đ không đến làm việc nên UBND xã đơn phương thanh lý hợp đồng.
Ngày 16/3/2022 ông Đ gửi đơn khởi kiện đến TAND huyện K. Nội dung đơn: Ông Đ cho rằng UBND xã H không thực hiện hành vi hành chính là chấm dứt hợp đồng thuê mặt bằng theo Thông báo số 18/TB-UB của UBND huyện K và khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu UBND xã bồi thường thiệt hại cho gia đình ông do đơn phương thanh lý hợp đồng mà chưa hỗ trợ, bồi thường thiệt hại, thanh lý tài sản cho gia đình ông.
Tuy nhiên, Thông báo số 18/TB-UB ngày 9/5/2005 của UBND huyện K là văn bản chỉ đạo của UBND cấp huyện đối với UBND xã trong việc giải quyết đơn thư tố cáo và xử lý sai phạm. Đây không phải là quyết định hành chính hay hành vi hành chính theo quy định tại Điều 3 Luật Tố tụng hành chính, và không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Ông Đ khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại tài sản liên quan đến hợp đồng thuê khoán quyền sử dụng đất. Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa ông Đ và UBND xã H là giao dịch dân sự do vậy nếu có tranh chấp thì phải giải quyết bằng vụ án dân sự theo BLTTDS. Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng hành chính là chưa chính xác.
2. Vi phạm trong việc xác định người ký đơn khởi kiện
Đây là dạng vi phạm không phổ biến nhưng dễ xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án nếu Kiểm sát viên không kiểm sát chặt chẽ hồ sơ vụ án.
Ví dụ: Vụ án khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực thuế giữa người khởi kiện ông Nguyễn Đình D và Chi cục thuế quận T.
Ông Nguyễn Đình D có thửa đất số 46, tờ bản đồ số 12, diện tích 46,6m2 tại địa chỉ tại số 378 đường L, phường X, quận T. Ngày 02/11/2020, trong quá trình làm hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Chi cục thuế quận T ban hành Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2010103-TK0009200/TB-CCT đối với ông D. Theo đó, ngày 12/01/2021, ông D đã nộp số tiền 978.992.000 đồng bao gồm: Tiền sử dụng đất phải nộp: 973.008.000 đồng; Tiền chậm nộp các khoản là 5.984.000đồng và 181.000đồng theo giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước số 0235863, 0236208, 0236083 tại Chi cục thuế quận T.
Sau đó, ông D cho rằng thửa đất số 46, tờ bản đồ số 12 thuộc trường hợp không phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật nên ông ủy quyền cho Công ty Luật C thực hiện việc khiếu nại và khởi kiện đối với Thông báo nộp tiền sử dụng đất của Chi cục thuế quận T.
Theo các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện người khởi kiện là ông Nguyễn Nguyễn Đình D. Tuy nhiên, ông D không trực tiếp ký đơn khởi kiện mà ủy quyền cho Công ty Luật C là người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng, Công ty Luật C trực tiếp ký đơn khởi kiện và đóng dấu của công ty vào đơn khởi kiện, đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện nộp tại Tòa án quận T. Thủ tục khởi kiện nêu trên là vi phạm quy định tại khoản 2, Điều 117 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Cá nhân có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của cả nhân; ở phần cuối đơn cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ ”. Như vậy, ông D đã có ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng nhưng đối với đơn khởi kiện ông D phải là người trực tiếp ký tên hoặc điểm chỉ để đảm bảo đúng điều kiện khởi kiện theo quy định của luật.
3. Vi phạm do đưa thiếu người tham gia tố tụng, xác định sai tư cách tham gia tố tụng
Việc đưa thiếu người tham gia tố tụng, xác định sai tư cách tham gia tố tụng là một trong những dạng vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng phổ biến và là nguyên nhân dẫn đến hủy án của đa số các vụ án.
Ví dụ: Cũng trong vụ án ông ông Nguyễn Đình D khởi kiện Chi cục thuế quận T. Người khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết tuyên hủy Thông báo nộp tiền sử dụng đất số LTB2010103-TK0009200/TB-CCT ngày 02/11/2020 của Chi cục thuế quận T và Quyết định số 3116/QĐ-CCT-KTNB ngày 15/3/2021 của Chi cục trưởng Chi cục thuế quận T về việc giải quyết khiếu nại của ông D (lần đầu).
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định người bị kiện là Chi cục thuế quận T mà không đưa Chi cục trưởng chi cục thuế quận T vào tham gia tố tụng với tư cách người bị kiện là vi phạm quy định tại khoản 9 Điều 3, Điều 53 Luật tố tụng hành chính 2015.
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân quận T xác định Văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội – Chi nhánh quận T, UBND quận T, UBND phường X tham gia tố tụng với tư cách là những người làm chứng là không chính xác. Bởi lẽ, đây là những cơ quan hành chính nhà nước quản lý về đất đai đã thực hiện xác nhận thông tin, tài liệu, hồ sơ liên quan đến diện tích đất và nghĩa vụ nộp thuế của ông D. Do đó, cần xác định những cơ quan này tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 10, 3 Luật tố tụng hành chính 2015.
Trên đây là một số vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án hành chính dẫn tới việc hủy án và sửa án trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phòng 10 tổng hợp để các độc giả cùng nghiên cứu, trao đổi để khâu công tác này ngày càng được nâng cao chất lượng, hạn chế án sửa hủy có lỗi của cơ quan và người tiến hành tố tụng./.
Phòng 10 - Viện KSND thành phố Hà Nội