Khó khăn, vướng mắc trong giải quyết Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong trường hợp tổ chức cùng một lúc từ 02 chiếu bạc trở lên

Nguyễn Quang Huy

       Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc được quy định tại Điều 249 BLHS năm 1999 và Điều 322 BLHS năm 2015. Trong quá trình triển khai thực hiện đã có nhận thức khác nhau giữa các đơn vị trong trường hợp tổ chức cùng một lúc từ 02 chiếu bạc trở lên. Từ việc nhận thức khác nhau, dẫn đến truy tố, xét xử khác nhau về tội danh; bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan, sai, hiện tại cũng chưa có sự thống nhất và cần có sự hướng dẫn của cấp có thẩm quyền.

       Điều 249. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc

       “1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định Điều này và Điều 248 của bộ này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triều đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm”

       Sau khi Bộ luật Hình sự có hiệu lực thi hành, do chưa có hướng dẫn, nên các cơ quan tiến hành tố tụng có khó khăn trong việc xác định thế nào là “với quy mô lớn”. Đề khắc phục khó khăn trên, năm 2003, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị Quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật hình sự, trong đó có tội tổ chức đánh bạc và gá bạc, cụ thể:

        Tại điểm 7.1. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây là “Với quy mô lớn”

       a. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên.

       Từ hướng dẫn trên, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có căn cứ để xác định tình tiết “ với quy mô lớn” để làm căn cứ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện thấy hướng dẫn trên có bất cập là các cơ quan tố tụng truy tố, xét xử nhiều vụ án số người chơi bạc với số tiền nhỏ nhặt (dưới hai triệu đồng)

       Khắc phục tồn tại trên, năm 2010, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị Quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2020 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự.

       Tại điều 2. Về một số quy định tại Điều 249 của Bộ luật hinh sự

       1. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây là “Với quy mô lớn”

       a)  Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.

       Trong quá trình thực hiện lại có sự không thống nhất giữa các điều tra viên, Kiểm sát viên và thẩm phán và mỗi đơn vị có sự khác nhau, dẫn đến đường lối truy tố, xét xử  đã có sự khác nhau. Nguyên nhân là do nhận thức khác nhau về cách tính số  tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc cho từ hai chiếu bạc trở lên có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên là tổng số tiền trên mỗi chiếu bạc hay là tổng số tiền của cả hai chiếu.

       Sự khác nhau trong truy tố, xét xử như sau:

      * Trường hợp thứ nhất: Số tiền đánh bạc của mỗi chiếu bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên. Đối với trường hợp này đều có sự thống nhất là truy tố, xét xử người tổ chức hoặc gá bạc về tội Tổ chức hoặc Gá bạc theo Điều 249 BLHS.

      * Trường hợp thứ hai: Số tiền đánh bạc có chiếu bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên; có chiếu bạc có giá trị dưới 2.000.000 đồng. Trường hợp này đã có sự khác nhau về  đường lối truy tố xét xử ( khác nhau về tội danh), cụ thể:

      Quan điểm thứ nhất: Căn cứ tổng số tiền dùng đánh bạc của cả hai chiếu bạc từ 2.000.000 đồng trở lên theo hướng dẫn tại điểm a, nên Truy tố, xét xử  người tổ chức hoặc gá bạc về tội Tổ chức hoặc Gá bạc theo Điều 249 BLHS

     Quan điểm thứ hai: Căn cứ  là chỉ có 01 chiếu số tiền chơi bạc trên 2.000.000 đồng, còn một chiếu số tiền dưới 2.000.000 đồng, nên không truy tố, xét xử người có hành vi tổ chức hoặc gá bạc về tội Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc theo quy định tại Điều 249 BLHS, mà truy tố, xét xử đồng phạm về tội Đánh bạc theo quy định tại điều 248 BLHS, người tổ chức hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn tại điểm a, nên không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, nhưng phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc (đồng phạm với các con bạc ở chiếu bạc có số tiền từ 2.000.000 đồng trở lên)

       * Trường hợp thức ba: Số tiền dùng vào đánh bạc của mỗi chiếu đều dưới 2.000.000 đồng, nhưng tổng số tiền của hai chiếu bạc là từ 2.000.000 đồng trở lên. Trường hợp này có sự khác nhau về đường lối truy tố xét xử (có thể làm oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm), cụ thể:

      Quan điểm thứ nhất: Căn cứ tổng số tiền dùng đánh bạc của cả hai chiếu bạc từ 2.000.000 đồng trở lên theo hướng dẫn tại điểm a, nên truy tố, xét xử người tổ chức hoặc gá bạc về tội Tổ chức hoặc Gá bạc theo Điều 249 BLHS

       Quan điểm thứ hai: Căn cứ tổng số tiền của mỗi chiếu bạc đều dưới 2.000.000 đồng, nên người tổ chức hoặc gá bạc không phải chịu tránh nhiệm hình sự về tội Tổ chức đánh bạc hoặc Gá bạc theo quy định tại Điều 249 BLHS và không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc, bởi trong trường hợp này không có đối tượng chơi bạc nào bị xử lý hình sự, nên không có đồng phạm.     

       * Trường hợp thứ tư: Số tiền dùng vào đánh bạc của mỗi chiếu đều dưới 2.000.000 đồng, tống số tiền của hai chiếu bạc cũng dưới 2.000.000 đồng.       Trường hợp này đều có sự thống nhất là người tổ chức hoặc gá bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.

       Đến Bộ luật hình sự năm 2015.

       Điều 322. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc

       1.Người nào tỏ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

       a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên  trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc giá trị 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc giá trị 5.000.000 đồng trở lên.

       b)…..

      Theo quy định tại Điều 322 BLHS, có bổ sung thêm so với quy định tại tại Nghị Quyết số 01 là tách riêng từng trường hợp: Tổ chức cho 10 người trở lên  hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên và thêm chữ  “Tổng số tiền” trước là “ số tiền”. Tuy nhiên hiện vẫn còn có cách hiểu khác nhau, cụ thể:

       Quan điểm thứ nhất: Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc giá trị 5.000.000 đồng trở lên là tổng số tiền của cả hai chiếu bạc.

       Quan điểm thứ hai: Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc giá trị 5.000.000 đồng trở lên là tổng số tiền mỗi chiếu bạc.

       Do còn có quan điểm khác nhau như trên, nên đường lối xử lý đối với người có hành vi tổ chức hoặc gá bạc như đã phân tich ở trên, vẫn xảy ra việc truy tố, xét xử khác tội danh, và bỏ loạt tội phạm hoặc làm oan, sai.

       Để đánh giá, phân tích quy định tại Điều 322 BLHS trong trường hợp người tổ chức tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc giá trị 5.000.000 đồng trở lên là tổng số tiền của cả 02 chiếu bạc trở lên hay là tổng số tiền của mỗi chiếu.

       Trước hết xét về số tiền 5.000.000 đồng trở lên là quy định về định lượng làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng đánh bạc, theo quy định khoản tại khoản 1 điều 321 BLHS.

       Thứ hai xét về trưởng hợp Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc giá trị 5.000.000 đồng trở lên. Trong trường hợp này ngoài việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người tổ chức hoặc gá bạc, còn truy cứu trách nhiệm hình sự 10 người tham gia chơi bạc về tội Đánh bạc. Nếu số tiền dưới 5.000.000 đồng thì các con bạc và người tổ chức hoặc gá bạc đều không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Như vậy đủ cơ sở kết luận 10 người đánh bạc là người phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự),

       Thứ ba xét về trường hợp Tổ chức cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc giá trị 5.000.000 đồng, các con bạc chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi:

       Số tiền tham gia chơi bạc, mỗi chiếu bạc 5.000.000 đồng trở lên thì các con bạc trên 02 chiếu đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự;

       Trường hợp tổng số tiền của mỗi chiếu, có chiếu từ 5.000.000 đồng trở lên và có chiếu dưới 5.000.000 đồng. Trong trường hợp này chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các con bạc ở chiếu 5.000.000 đồng trở lên. Còn con bạc ở chiếu có tổng số tiền dưới 5.000.000 đồng chỉ bị xử lý hành chính (trừ trường hợp đối tượng có tiền án, tiền sự)

       Trường hợp tổng số tiền dùng đánh bạc trên mỗi chiếu bạc đều dưới 5.000.000 đồng, nhưng tổng số tiền của 02 chiếu 5.000.000 đồng trở lên thì các con bạc trên cả 02 chiếu bạc đều không bị xử lý hình sự (trừ trường hợp đối tượng có tiền án, tiền sự).

       Như vậy, chỉ có trường hợp số tiền tham gia chơi bạc của mỗi chiếu bạc có giá trị 5.000.000 đồng trở lên thì các con bạc trên 02 chiếu đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

       Quan điểm của tác giả: Trường hợp tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc giá trị 5.000.000 đồng trở lên được hiểu là tổng số tiền của mỗi chiếu bạc, bởi: Theo phân tích trên ngoài việc truy tố, xét xử người có hành vi tổ chức hoặc gá bạc về tội Tổ chức đánh bạc hoặc Gá bạc thì 10 người đánh bạc và các đối tượng trên 02 chiếu bạc (phải đủ điều kiện để xử lý hình sự đối với các đối tượng chơi bạc về tội Đánh bạc theo quy định Điều 321 BLHS)

       Tuy nhiên trên thực tế nhiều đơn vị trên địa bàn thành phố Hà Nội đang truy tố, xét xử đối với người có hành vi tổ chức hoặc gá bạc với quan điểm: số tiền 5.000.000 đồng trở lên là tổng số tiền của 02 chiếu bạc.

       Hiện kết luận của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành đã giao cho Phòng 7 phối hợp với Phòng 2 nghiên cứu và có hướng dẫn, để thống nhất trong nhận thức, tránh làm oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm

       Mong có sự trao đổi của các đồng nghiệp.

                                                                                                                                                                                                                          Phan Đức - VKSND huyện Quốc Oai

Bài viết trước Vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú
Bài viết tiếp theo Công tác kiểm sát giám định tư pháp chất nghi là ma túy và một số vướng mắc
In
4523 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều