Bàn về kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong thi hành án dân sự và một số kiến nghị hoàn thiện

Mai Thùy Linh

        Thi hành án dân sự là khâu cuối của quá trình tố tụng, nhằm hiện thực hóa những phán quyết của Tòa án vào thực tiễn cuộc sống; có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thực thi công lý, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định[1]. Để hoạt động thi hành án dân sự bảo đảm đúng quy định của pháp luật thì một trong số những cơ chế để bảo đảm là thông qua công tác kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự, được tiến hành bởi một chủ thể duy nhất là Viện kiểm sát nhân dân (Viện KSND). Việc thực hiện kịp thời và hiệu quả công tác kiểm sát việc thi hành án dân sự sẽ góp phần quan trọng trong việc thi hành đúng theo quy định của pháp luật các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Qua đó, khẳng định tính nghiêm minh của pháp luật cũng như tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động kiểm sát của Viện KSND và Kiểm sát viên (KSV) trong thời gian qua còn một số vấn đề cần bàn luận và nghiên cứu để hoàn thiện. Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả phân tích một số quy định cũng như thực tiễn thi hành các quy định về kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong thi hành án dân sự để trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện.

        1. Quy định của pháp luật về kiểm sát việc thi hành án dân sự

        Điều 28 Luật Tổ chức Viện KSND năm 2014 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND khi kiểm sát thi hành án dân sự (THADS), thi hành án hành chính (THAHC) như: kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết định của Tòa án; trực tiếp kiểm sát việc thi hành án (THA) của Cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên (CHV), cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan; Kiểm sát hồ sơ về THA; kiến nghị Tòa án, cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới, CHV, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc THA; kháng nghị quyết định của Tòa án, quyết định, hành vi của Thủ trưởng, CHV cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới theo quy định của pháp luật; yêu cầu đình chỉ việc THA, v.v.. Khoản 2 Điều 12 Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng quy định về đối tượng và phạm vi kiểm sát việc THADS của Viện kiểm sát (VKS) các cấp.

        Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, Viện KSND tối cao cũng ban hành các Quyết định, văn bản hướng dẫn về công tác kiểm sát THADS như: Quyết định số 810/QĐ-VKSTC ngày 20/12/2016 về việc ban hành Quy chế công tác kiểm sát THADS, THAHC; Quyết định số 94/QĐ-VKSTC ngày 22/3/2021 ban hành quy chế về quy trình, kỹ năng trực tiếp kiểm sát tại cơ quan THADS và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS, THAHC v.v..

        2. Đánh giá một số vấn đề về thực tiễn kiểm sát việc thi hành án dân sự

        Chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của Viện KSND trong công tác kiểm sát việc THADS rất rộng. Ngày 12/01/2021, Viện KSND tối cao đã ban hành Hướng dẫn số 08/HD-VKSNDTC về công tác kiểm sát thi hành án dân sự và thi hành án hành chính năm 2021. Theo đó, kiểm sát viên được phân công kiểm sát việc hành án dân sự cần chủ động, nỗ lực nghiên cứu các quy định về thi hành án dân sự cũng như trau dồi kỹ năng, nghiệp vụ khi trực tiếp kiểm sát việc thi hành án. Công tác kiểm sát THADS đã đạt được những kết quả khả quan, hoàn thành các chỉ tiêu nghiệp vụ được Quốc hội giao. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì thực tiễn cho thấy còn một số hạn chế, bất cập. Cụ thể:

        Thứ nhất, một số quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau giữa Tòa án nhân dân, Viện KSND và cơ quan THADS dẫn đến hoạt động kiểm sát việc THADS gặp nhiều khó khăn và chưa thực sự có sự thống nhất trong thực tiễn thi hành.

        Ví dụ: về quy định kê biên tài sản của người phải THA trong khối tài sản chung của hộ gia đình và của vợ chồng: Theo khoản 1 Điều 74 Luật THADS thì trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải THA trong khối tài sản chung, nếu đương sự không thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung thì CHV yêu cầu Tòa án giải quyết và CHV xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án. Để hướng dẫn quy định này, điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS quy định: CHV tiến hành tự phân chia tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình; nếu vợ chồng hoặc các thành viên trong hộ gia đình không đồng ý với việc phân chia của CHV thì có quyền yêu cầu Tòa phân chia tài sản chung; hết thời hạn mà họ không khởi kiện thì CHV tiến hành kê biên, xử lý tài sản theo sự phân chia của CHV. Tuy nhiên, hiện nay, còn nhiều quan điểm áp dụng pháp luật để THA, cụ thể:

        (i) Quan điểm thứ nhất cho rằng, trước khi kê biên, xử lý tài sản chung của vợ chồng; tài sản chung của hộ gia đình thì CHV cơ quan THADS phải thông báo cho người phải THA và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. CHV không được tự phân chia tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật THADS. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2020, trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Vì vậy, trong trường hợp vụ việc này sẽ không áp dụng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.

        (ii) Quan điểm thứ hai cho rằng, trước khi cưỡng chế kê biên xử lý tài sản chung của vợ chồng; tài sản chung của hộ gia đình thì CHV phải xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất theo điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và thực hiện kê biên, xử lý tài sản theo quy định pháp luật.

        Do đó, để bảo đảm việc THADS nói chung và kiểm sát việc THADS nói riêng được thống nhất, minh bạch, khách quan, yêu cầu tất yếu đặt ra là cần hoàn thiện các quy định về THADS theo hướng rà soát, sửa đổi các quy định còn nhiều cách hiểu nêu trên.

        Thứ hai, theo thống kê, từ sau khi Luật THADS năm 2008 được ban hành, các cơ quan có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn. Nội dung công tác kiểm sát việc THADS được Viện KSND tối cao quy định, hướng dẫn chung trong các văn bản về kiểm sát việc THAHC[2]. Tuy nhiên, nhiều KSV gặp khó khăn trong việc xác định nội dung kiểm sát THADS do chưa có hướng dẫn cụ thể. Công tác THADS, THAHC có số lượng luật nội dung rất lớn, KSV được phân công phụ trách bộ phận gặp khó khăn trong việc tìm hiểu và áp dụng các văn bản quy phạm khi có các văn bản hướng dẫn được ban hành chung cho cả hai lĩnh vực.

        Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cơ quan trong công tác THADS với Viện kiểm sát trong một số trường hợp còn chưa kịp thời. Ví dụ như trong việc tăng cường kiểm sát việc chấp hành án của người phải THA hay trong việc xử lý nghiêm các trường hợp chống đối, không chấp hành bản án của các đối tượng có liên quan. Khó khăn này xuất phát từ một số nguyên nhân chính sau:chức năng kiểm sát việc THADS của Viện kiểm sát có phạm vi rất rộng, tuy nhiên, nhân sự bảo đảm thực hiện chưa thực sự đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Ở cấp huyện hiện nay chưa có KSV chuyên trách bộ phận mà thực hiện kiêm nhiệm, thường xuyên thay đổi nên việc tiếp cận, học tập, thực hiện tốt công tác nhiệm vụ được giao gặp nhiều khó khăn.

        3. Một số gợi mở nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kiểm sát việc thi hành án dân sự

        Từ thực tiễn nêu trên cũng như xuất phát từ quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự[3], tác giả đưa ra một số gợi mở cho thời gian tới.

        Một là, về công tác nhân sự, Công tác THADS diễn ra thường xuyên, liên tục, có liên quan đến lợi ích vật chất và tinh thần của các bên đương sự; số lượng việc THA ngày càng tăng, tính chất ngày càng phức tạp; số lượng các văn bản liên quan đến  THADS, THAHC rất lớn. Tuy nhiên, cán bộ phụ trách công tác THADS của VKS mỏng, yếu, chưa có tổ chức bộ máy tách riêng giữa kiểm sát thi hành án dân sự với kiểm sát thi hành án hành chính[4] nên đôi khi còn chưa đáp ứng nhiệm vụ được giao. Do đó, cần thiết bố trí số lượng KSV chuyên trách tương xứng với lượng công việc của Cơ quan THADS, ưu tiên bố trí KSV chuyên trách phụ trách công tác kiểm sát THADS tại cấp huyện.

        Hai là, về hoàn thiện các quy định của pháp luật về kiểm sát việc THA: Để bảo đảm tính thống nhất các quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng công tác kiểm sát THADS, việc hoàn thiện các quy định về thi hành án nói chung và pháp luật chuyên ngành nói riêng là cần thiết. Trên cơ sở các quy định của pháp luật, Viện KSND các cấp, KSV có căn cứ để thực hiện nhiệm vụ một cách đồng bộ, thống nhất toàn ngành. Do đó, trong thời gian tới, cần tổ chức tổng kết, đánh giá và nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi các quy định của Luật THADS cho phù hợp hơn.

        Ba là, tăng cường mối quan hệ phối hợp; tổng hợp, đánh giá và nghiên cứu ban hành mới Quy chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện KSND tối cao trong công tác THADS, THAHC. Ngày 09/10/2013, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện KSND tối cao đã ký Quy chế phối hợp số 13/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC về phối hợp liên ngành trong công tác THADS. Đến nay, Luật THADS đã được sửa đổi, bổ sung nhưng Quy chế 13 chưa được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Do đó, các cơ quan có liên quan trên cơ sở đánh giá việc triển khai thực hiện Quy chế, nhận diện những khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của Quy chế bảo đảm tính khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.

        Bốn là, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, phầm mềm nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát THADS. Đặc biệt, trong tình hình diễn biến phức tạp của COVID-19 thời gian gần đây, khi nhiều tỉnh, thành phố phải thực hiện giãn cách xã hội, với đặc thù của công tác THA phải gặp gỡ, tìm hiểu, trao đổi, vận động thuyết phục các bên đương sự cũng như người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Việc gặp gỡ, làm việc trực tiếp không bảo đảm an toàn cho CHV. Do đó, cơ quan THADS và các cơ quan hữu quan cần kịp thời nghiên cứu, triển khai và hoàn thiện các phần mềm có khả năng kết nối, chia sẻ dữ liệu, trên cơ sở sử dụng và tích hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu về lý lịch tư pháp, cơ sở dữ liệu về hộ tịch điện tử để chia sẻ thông tin, dữ liệu qua đó thúc đẩy hơn nữa công tác THA bảo đảm kịp thời. Mặt khác, ứng dụng tối đa công nghệ trong việc trao đổi, làm việc với các đương sự, cơ quan có liên quan để bảo đảm một mặt thi hành bản án, quyết định đúng thời hạn; bảo đảm các quy định về phòng, chống dịch./.

Nhóm tác giả: Nguyễn Đức Toàn, Hoàng Thúy Hằng, Nguyễn Hữu Chỉnh

Viện KSND huyện Thường Tín


[2] Như: Quyết định số 810/QĐ-VKSTC ngày 20/12/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy chế công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; Chỉ thị số 07/CT-VKSTC ngày 23/11/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; Hướng dẫn số 08/HD-VKSTC ngày 12/01/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính năm 2021 v.v..

[3] Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ngày 03/02/2004 nêu rõ: “Tập trung thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục cơ bản tình trạng tồn đọng kéo dài”; Tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 tiếp tục xác định: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng chiến lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp” v.v.

[4] Nguyễn Thị Thủy Khiêm (2016), nhiệm vụ của công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính và kiểm sát thi hành án hành chính trong thời gian tới, Tạp chí Kiểm sát, số 24.

Bài viết trước Một số khó khăn, vướng mắc và kinh nghiệm THQCT, KSĐT đối với các vụ án Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại
Bài viết tiếp theo Quan điểm và nhận thức về tội danh “Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” quy định tại Điều 322 BLHS
In
830 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều