BÀN VỀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Huỳnh Phương Linh

Lịch sử lập pháp hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến nay đã xây dựng và ban hành được 03 (ba) Bộ luật hình sự là Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 2009 và Bộ luật hình sự năm 2015. Quá trình lập pháp đã kế thừa phát huy những mặt tích cực của Bộ luật hình sự trước, đồng thời loại bỏ những mặt hạn chế không còn phù hợp với tình hình hiện nay đồng thời bổ sung các quy định mới, tiến bộ nhằm đáp ứng yêu cầu tất yếu của đời sống xã hội, góp phần vào việc phát triển kinh tế, văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự. Bộ luật hình sự năm 1985 đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung nhưng không đáp ứng được sự phát triển của xã hội. Cụ thể như: các tội về xâm phạm sở hữu tài sản Cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, tội Cướp tài sản của công dân, tội Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, tội Trộm cắp tài sản của công dân... không qui định về giá trị tài sản bị chiếm đoạt là nhiêu để xác định cấu thành cơ bản; về định khung hình phạt tăng nặng được quy định bằng trọng lượng lương thực là gạo (tấn gạo) để làm căn cứ xử lý. Cơ quan tiến hành tố tụng xác định giá trị tài sản bị xâm hại căn cứ vào lời khai của người bị hại, sau đó quy đổi ra trọng lượng gạo theo bảng giá gạo từng thời điểm do cơ quan tài chính quy định để xử lý. Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến tài sản thì thông thường người hại khai báo với cơ quan tiến hành tố tụng về giá trị tài sản bị xâm hại cao hơn giá trị thực tế dẫn đến tình trạng gây bất lợi cho bị can, bị cáo; Về phía bị can, bị cáo thường khai báo giá trị tài sản mà bị can, bị cáo chiếm đoạt có giá trị thấp hơn giá trị thực tế nên khi cơ quan tiến hành tố tụng (Tòa án) quyết định hình phạt thì bị cáo kháng cáo và cho rằng việc xét xử của Tòa án là không đúng và quá nặng. Từ những bất cập này, xã hội đòi hỏi phải có một cơ quan chuyên môn xác định giá trị tài sản bị xâm hại để làm căn cứ xử lý không gây bất lợi cho bị can, bị cáo, đồng thời đảm bảo quyền tài sản của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn dân sự.

Khắc phục các bất cập nêu trên, Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 đã quy định cơ bản các tội về xâm phạm sở hữu cấu thành phải có định lượng giá trị tài sản là tiền Việt Nam đồng; khung hình phạt tăng nặng cũng được quy định giá trị tài sản bị xâm hại có định lượng là tiền Việt Nam đồng. Song hành với các quy định nêu trên của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 về xác định giá trị tài sản bị xâm phạm, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02 tháng 3 năm 2005 quy định về định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Bộ tài chính ban hành Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22 tháng 6 năm 2006 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

Hơn 10 (mười) năm thực hiện các quy định về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cho thấy có nhiều bất cập; nhiều nơi Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng tụng hình sự chưa làm hết trách nhiệm của mình, có nơi Hội đồng định giá tài sản làm quá phạm vi chức trách của mình như: tài sản bị chiếm đoạt không thu giữ được thì Hội đồng định giá tài sản từ chối không định giá tài sản hoặc Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tiến hành định giá tài sản theo yêu cầu của cơ quan không phải là cơ quan tiến hành tố tụng (không phải là theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án); hoặc Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành lập thêm thành viên tham gia Hội đồng định giá; Hội đồng định giá tài sản khi tiến hành định giá tài sản chưa tiến hành đầy đủ các bước để làm căn cứ định giá, các thiếu sót này là vi phạm các quy định về phạm vi, trách nhiệm của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự được quy định tại Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ. Trong phạm vi bài viết này, chủ ý phân tích làm rõ hơn các qui định về trình tự thành lập, quyền, nghĩa vụ và trình tự thủ tục định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao chất lượng hơn nữa công tác kiểm sát định giá tài sản trong các vụ án hình sự.

- Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự được pháp luật quy định thành lập ở ba cấp là cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện, có nhiện vụ quyền hạn định giá tài sản theo nguyên tắc phù hợp với giá trị thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm, định giá tài sản phải trung thực, khách quan, công khai và kịp thời.

Hội đồng định giá tài sản cấp trung ương do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định thành lập; bao gồm các thành phần 01 (một) lãnh đạo của Bộ Tài chính làm Chủ tịch Hội đồng, 01 (một) lãnh đạo chuyên môn về giá của Bộ Tài chính là thành viên thường trực của Hội đồng, đại diện các cơ quan chuyên môn là thành viên Hội đồng. Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản quyết định thành viên cụ thể cho từng vụ việc. Số lượng thành viên của Hội đồng định giá tài sản tối thiểu là 03 (ba) người. Được tiến hành định giá tài sản theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Có nhiệm vụ thực hiện việc định giá tài sản có giá trị đặc biệt lớn; thực hiện việc định giá lại trong trường hợp có mâu thuẫn về kết luận định giá lần đầu và kết luận định giá lại. Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá của cấp trung ương là kết luận cuối cùng.

Hội đồng định giá tài sản cấp tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân cấp tỉnh quyết định thành lập theo đề nghị của Sở Tài chính; bao gồm các thành phần: 01 (một) Lãnh đạo Sở Tài chính làm Chủ tịch Hội đồng, 01 (một) chuyên viên về giá của Sở Tài chính làm thành viên thường trực của Hội đồng, đại diện các cơ quan, tổ chức chuyên môn làm thành viên Hội đồng. Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản quyết định thành viên cụ thể cho từng vụ việc. Số lượng thành viên của Hội đồng định giá tài sản cấp tỉnh tối thiểu là 03 (ba) người. Được tiến hành định giá tài sản theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng nghĩa là chỉ được định giá tài sản theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án.

Hội đồng định giá tài sản cấp huyện về thủ tục thành lập và thực hiện chức năng tương tự như Hội đồng định giá cấp tỉnh nhưng chỉ khác ở chỗ do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thành lập theo đề nghị của Phòng tài chính và chỉ thực hiện việc định giá tài sản theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng là các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án.

- Trình tự định giá tài sản được thực hiện theo yêu cầu bằng văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án); yêu cầu định giá tài sản của cơ quan tiến hành tố tụng phải thể hiện các nội dung chính sau đây: tên cơ quan yêu cầu định giá (tức là tên cơ quan tiến hành tố tụng), tên Hội đồng định giá tài sản được yêu cầu (tức là Hội đồng định giá cấp trung ương, Hội đồng định giá cấp tỉnh hoặc Hội đồng định giá cấp huyện); thông tin về tài sản cần định giá (ví dụ như: tài sản cần định giá là xe ôtô thì phải cung cấp các thông tin về xuất sứ, năm sản xuất, lời khai của người chủ phương tiện, thời gian sử dụng phương tiện...); nội dung yêu cầu định giá về phần thiệt hại được tính bằng tiền Việt Nam đồng; thời gian kết luận định giá tài sản.

- Khi tiến hành định giá tài sản, Hội đồng định giá tài sản dựa trên 05 (năm) căn cứ là: Giá phổ biến trên thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm hại; giá do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định; giá trên tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá (nếu có); giá trị thực tế của tài sản cần định giá; các căn cứ khác về tài sản cần định giá.

Trong quá trình định giá, khảo sát giá là một bước bắt buộc và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết định giá trị tài sản cần định giá. Do vậy, Hội đồng định giá tài sản phải khảo sát giá thị trường theo giá bán buôn hoặc bán lẻ đối với tài sản cùng loại hoặc tương đương còn mới, có chất lượng đạt một trăm phần trăm; nghiên cứu bảng giá tài sản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định để thực hiện tại địa phương; tham khảo giá trên tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá.

Trường hợp tài sản cần định giá bị thất lạc hoặc tài sản không thu hồi được, thì Hội đồng định giá được thực hiện theo nguyên tắc trên hồ sơ của tài sản, trên cơ sở các thông tin tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá, như: lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, lời khai của nguyên đơn dân sự, lời khai của bị đơn dân sự, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, lời khai của người có hành vi xâm phạm tài sản để xác định tài sản bị xâm phạm là tài sản thuộc chủng loại, mẫu mã, nhãn mác, chất lượng...). Việc Hội đồng định giá tài sản từ chối hoặc không kết luận định giá tài sản bị thất lạc, tài sản không thu hồi được là chưa làm hết trách nhiệm được giao dẫn đến việc xử lý vụ của cơ quan tiến hành tố tụng không chính xác, có khả năng bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người không phạm tội.

- Từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự và các quy định của Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày ngày 02 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ nêu trên, việc thực hiện chức năng kiểm sát việc định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự có khách quan hay không, đảm bảo đúng quy định của pháp luật hay không là vấn đề khó khăn và chưa hợp lý khi Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ được giao, bởi lẽ: khoản 3, Điều 18 của Nghị định, quy định: Kết luận định giá tài sản và biên bản định giá tài sản được gửi cho cơ quan tố tụng yêu cầu định giá. Nghị định không quy định toàn bộ hồ sơ định giá tài sản phải gửi cho cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu định giá mà lại quy định lưu tại cơ quan tài chính (khoản 2, Điều 19, Nghị định 26/2005/NĐ-CP).

Như vậy, việc kiểm sát định giá giá tài sản trong các vụ án hình sự của Viện kiểm sát chỉ được dựa trên 02 (hai) tài liệu là biên bản định giá tài sản và kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá. Trong khi chờ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành quy định: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có thể tham dự phiên họp định giá tài sản, thì trước hết để nâng cao chất lượng khi thực nhiệm vụ, chức năng kiểm sát, trước yêu cầu và đòi hỏi của xã hội ngày càng cao, theo quan điểm của cá nhân (tác giả) thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ 02 (hai) loại văn bản này là biên bản định giá và kết luận định giá tài sản có đảm bảo về hình thức và nội dung. Việc nghiên cứu biên bản định giá và kết luận định giá tài sản của Hội đồng đồng định giá tài sản phải được dựa trên các nguyên tắc sau:

Một là, biên bản định giá tài sản phải ghi nhận kịp thời, đầy đủ và trung thực toàn bộ quá trình định giá tài sản; phải có các nội dung họ tên Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản và các thành viên của Hội đồng; họ tên những người tham dự phiên họp; thời gian, địa điểm tiến hành việc định giá; kết quả khảo sát giá trị của tài sản; ý kiến của các thành viên Hội đồng định giá và những người tham dự phiên họp; kết quả biếu quyết của Hội đồng định giá; thời gian địa điểm hoàn thành việc định giá tài sản; chữ ký của các thành viên Hội đồng định giá tài sản, có nghĩa là Hội đồng định giá có bao nhiêu thành viên thì biên bản định giá tài sản phải có bấy nhiêu chữ ký của thành viên.

Hai là, kết luận định giá tài sản phải thể hiện nội dung tên cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu định giá tài sản; thành phần Hội đồng định giá phải ghi rõ họ tên Chủ tịch Hội đồng và họ tên các thành viên của Hội đồng; số văn bản yêu cầu định giá hoặc quyết thành lập Hội đồng định giá; ngày nhận văn bản yêu cầu định giá; tên tài sản cần định giá; thông tin, tài liệu có liên quan đến tài sản cần định giá; kết luận về tài sản; thời gian địa điểm hoàn thành việc định giá; kết luận định giá phải có chữ ký của tất cả các thành viên của Hội đồng, có nghĩa là Hội đồng định giá tài sản có bao nhiêu thành viên thì kết luận định giá tài sản phải có bấy nhiêu chữ ký của thành viên (không được ký thay mặt Hội đồng).

Bài viết chủ ý đánh giá, phân tích làm rõ hơn các quy định về định giá tài sản trong tố tụng hình sự, góp phần trong việc nâng cao chất lượng kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự có liên quan đến tài sản. Rất mong được bổ sung, đóng góp của bạn đọc.

                                                                                                                                     Đỗ Minh Tuấn - Phó trưởng Phòng 1 - Viện KSND TP Hà Nội

Bài viết trước BÀN VỀ VẤN ĐỀ LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
Bài viết tiếp theo Bàn về phương thức nâng cao chất lượng bài phát biểu của KSV tại phiên tòa dân sự, hành chính sơ thẩm
In
4089 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều