Áp dụng thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, những ưu điểm và hạn chế trong thực tiễn
Thủ tục rút gọn là một thủ tục đặc biệt, lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) nhằm rút ngắn một cách đáng kể thời hạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, nhân thân người phạm tội rõ ràng. Tuy nhiên, trong thực tế việc áp dụng thủ tục rút gọn còn nhiều vướng mắc, số lượng vụ án áp dụng thủ tục rút gọn là rất ít so với tổng số án thụ lý. Nhằm khắc phục những hạn chế này, BLTTHS 2015 đã quy định thủ tục rút gọn tại Chương XXXI gồm 11 điều từ Điều 455 đến Điều 465 với nhiều sửa đổi, bổ sung để phát huy vai trò, ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong giải quyết nhanh chóng các vụ án hình sự. Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày những ưu điểm, hạn chế trong quy định về điều kiện áp dụng và thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn của BLTTHS 2015.
1. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
BLTTHS 2003 quy định thủ tục rút gọn chỉ áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, không áp dụng đối với xét xử phúc thẩm. BLTTHS 2015 đã quy định mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn đối với cả giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm thủ tục rút gọn được áp dụng khi có đủ các điều kiện: (1) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú; (2) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; (3) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; (4) Người phạm tội có nơi cư trú, lí lịch rõ ràng. So sánh với quy định về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn của BLTTHS 2003 có thể thấy BLTTHS 2015 đã có nhiều tiến bộ.
Thứ nhất, điều kiện liên quan đến người phạm tội đã bổ sung thêm trường hợp “người phạm tội tự thú” bên cạnh trường hợp “người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang”. Quá trình thi hành BLTTHS 2003, có những vụ án người phạm tội tự thú, nội dung sự việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng phù hợp với việc áp dụng thủ tục rút gọn nhưng không thể áp dụng thủ tục rút gọn vì Bộ luật này không quy định dấu hiệu “người phạm tội tự thú” là điều kiện được áp dụng thủ tục rút gọn.
Thứ hai, điều kiện “người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng” quy định trong BLTTHS 2003 đã được sửa đổi thành “người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng”. Căn cước, lai lịch của người phạm tội là hai yếu tố thuộc về nhân thân của người phạm tội và có phạm vi rất rộng, để xác định được căn cước, lai lịch của một người có rõ ràng hay không sẽ phải tốn nhiều thời gian, không đảm bảo yêu cầu của thủ tục rút gọn. Do đó, BLTTHS 2015 đã sửa đổi cụm từ “căn cước, lai lịch rõ ràng” thành “nơi cư trú, lý lịch rõ ràng” để dễ dàng xác định vụ án đó có đáp ứng đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn hay không một cách nhanh chóng nhất.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm thủ tục rút gọn được áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: (1) Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo; (2) Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 456 và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo. Đây là một quy định mới trong BLTTHS 2015, lần đầu tiên giai đoạn xét xử phúc thẩm cũng có thể áp dụng thủ tục rút gọn nhằm rút ngắn thời gian xét xử ở cấp phúc thẩm đối với những vụ án đảm bảo các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn ở giai đoạn xét xử sơ thẩm (có thể thủ tục rút gọn đã được áp dụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hoặc chưa áp dụng) và nội dung kháng cáo, kháng nghị chỉ xoay quanh việc áp dụng pháp luật khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, chứ không liên quan đến các vấn đề khác. Vụ án được áp dụng thủ tục rút gọn ở giai đoạn xét xử phúc thẩm thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công xét xử ban hành một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Trường hợp Thẩm phán ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ban hành quyết định Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án. Phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục rút gọn do 01 Thẩm phán tiến hành.
Với những quy định mới tiến bộ hơn, mở rộng về phạm vi áp dụng, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn BLTTHS 2015 đã tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thuận lợi xem xét quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định trong BLTTHS 2015 vẫn còn có những hạn chế nhất định. Việc quy định chỉ được áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tội phạm ít nghiêm trọng. Nhưng thực tế, đối với các tội phạm nghiêm trọng như tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý nhiều vụ đáp ứng được đầy đủ các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn nhưng không thể áp dụng thủ tục rút gọn, trong khi đó tội phạm về ma túy lại chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng số các vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý.. Mặt khác, các tội phạm về sở hữu dù có nhiều tội thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng nội dung vụ án lại có thể liên quan đến nhiều vấn đề dân sự nên nhiều vụ cũng không áp dụng được thủ tục rút gọn do không đảm bảo được về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn. Chính vì vậy tuy BLTTHS 2015 đã được thi hành một thời gian nhưng số lượng án được áp dụng theo thủ tục rút gọn vẫn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ.
2. Thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn
BLTTHS 2003 quy định, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng và hủy bỏ thủ tục rút gọn trong ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm. Quy định như vậy đã dẫn tới tình trạng không chủ động, không nêu cao tinh thần trách nhiệm của Cơ quan điều tra và Tòa án trong việc xem xét giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn. Đồng thời, số lượng các vụ án hình sự được giải quyết theo thủ tục rút gọn rất ít so với tổng số các vụ án hình sự được giải quyết hàng năm. Nhằm khắc phục tình trạng này, BLTTHS 2015 đã quy định thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn cho cả ba chủ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra, Tòa án được gửi cho Viện kiểm sát trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định để kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn. Trong trường hợp xét thấy quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra không đúng pháp luật, thì trong thời hạn 24 giờ Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và gửi cho Cơ quan điều tra biết. Nếu quyết định áp dụng thủ tục của Tòa án không đúng pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định; Chánh án Tòa án phải xem xét trả lời trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát. Cũng theo quy định của BLTTHS 2015 thì việc áp dụng thủ tục rút gọn không còn là “có thể” như quy định trong BLTTHS 2003 nữa, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo luật định thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Đây có thể coi là điểm mới nổi bật trong quy định của BLTTHS 2015, quy định này đã tạo ra sự ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, BLTTHS 2015 lại chưa quy định trách nhiệm khi các cơ quan tiến hành tố tụng không ban hành hoặc ban hành không kịp thời quyết định áp dụng thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn./.
Bùi Thị Thu Hường – Viện KSND quận Cầu Giấy