Một số bất cập về chi phí tố tụng và gợi mở hoàn thiện
Theo Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 ngày 28/03/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng (Pháp lệnh số 02),“Chi phí giám định là số tiền cần thiết, hợp lý phải chi trả cho công việc giám định do tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tính căn cứ vào quy định của Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật có liên quan” (Khoản 1 Điều 3). Chi phí giám định bao gồm một hoặc một số chi phí sau: (i) Chi phí tiền lương và các khoản thù lao cho người thực hiện giám định; (ii) Chi phí vật tư tiêu hao; (iii) Chi phí sử dụng dịch vụ; (iv) Chi phí khấu hao máy móc, phương tiện, thiết bị; (v) Các chi phí khác theo quy định của pháp luật (Điều 9) và do cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu hoặc người yêu cầu giám định chi trả.
Tuy nhiên, Pháp lệnh được ban hành trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có hiệu lực; ngoài ra thực tiễn thi hành còn một số vướng mắc, bất cập, do đó, một số quy định của Pháp lệnh không còn phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, trong phạm vi bài viết, tác giả nhận diện một số những hạn chế, vướng mắc liên quan đến các quy định của Pháp lệnh so với thực tiễn và chưa phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra một số gợi mở nhằm tháo gỡ các hạn chế, vướng mắc.
1. Một số bất cập của Pháp lệnh
Trước khi có Pháp lệnh 02 thì việc tính, thu chi phí cần thiết và hợp lý cho việc thực hiện giám định tư pháp được thực hiện theo chế độ “PHÍ” (theo Pháp lệnh giám định tư pháp và Pháp lệnh phí, lệ phí có quy định về phí giám định tư pháp). Theo đó, Bộ Tài chính có trách nhiệm và thẩm quyền ban hành quy định cụ thể về phí giám định tư pháp ở từng lĩnh vực cho phù hợp với tính chất, đặc thù của mỗi lĩnh vực. Vì thế, trong thời gian đó, theo đề nghị của Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Thông tin và truyền thông, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều Thông tư về phí giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự, thông tin và truyền thông[1]. Đây là cơ sở pháp lý cụ thể và rất quan trọng để các cơ quan, tổ chức thực hiện giám định tư pháp tiến hành việc thu, nộp và quản lý, sử dụng phí giám định tư pháp, đồng thời góp phần giải quyết các vướng mắc, khó khăn liên quan đến tính, thu phí và bảo đảm sự ổn định, thuận lợi trong hoạt động giám định tư pháp ở các lĩnh vực này. Tuy nhiên, năm 2012, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh số 02 thì chi phí cần thiết và hợp lý chi trả cho việc thực hiện giám định tư pháp được chuyển sang “chi phí giám định” thay vì là “phí giám định tư pháp”. Trong quá trình triển khai Pháp lệnh số 02 đã phát sinh hạn chế, vướng mắc, cụ thể:
Thứ nhất, Pháp lệnh số 02 không quy định cụ thể, rõ ràng về cơ chế tài chính của chi phí giám định và chi phí giám định có đồng nhất với giá. Trước hết, nếu xác định chi phí giám định là giá thì có cần phải được nhà nước kiểm soát và nằm trong danh mục các mặt hàng, dịch vụ mà do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt như giá điện nước, xăng dầu… Trong khi đó, với tính chất của hoạt động giám định tư pháp là phục vụ tố tụng, liên quan trực tiếp đến công lý và Việt Nam hiện nay tuyệt đại đa số là theo trưng cầu và do các cơ quan tiến hành tố tụng chi trả, nên theo Luật Phí và lệ phí năm 2015 thì cơ chế tài chính chi trả cho chi phí giám định chỉ có thể là phí[2] và lệ phí[3] do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Tuy nhiên, qua rà soát chi tiết các loại phí và lệ phí thì không có chi phí giám định tư pháp mà hiện nay chỉ có lệ phí tòa án (gồm: lệ phí gửi văn bản tố tụng ra nước ngoài; lệ phí giải quyết việc dân sự, lệ phí cấp bản sao giấy tờ, sao chụp tài liệu tại Tòa án; phí thẩm định cấp giấy giám định y khoa …). Do đó, việc triển khai, thực hiện chi phí giám định tư pháp trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc ngay từ khâu ban hành văn bản hướng dẫn đến tổ chức thi hành trong hoạt động trưng cầu, thực hiện giám định tư pháp đối với cả cơ quan tố tụng có trưng cầu và các cơ quan, tổ chức làm giám định.
Thứ hai, theo quy định của Pháp lệnh thì chi phí giám định tư pháp chỉ tính đến các chi phí cần thiết và hợp lý cho việc thực hiện giám định nhưng thực tế thì chi phí cho giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng còn có các chi phí cho việc tham dự phiên toà của người giám định ở giai đoạn xét xử (thường thì sau khi việc giám định đã kết thúc). Tuy nhiên, hiện nay chi phí này chưa được bao hàm trong chi phí giám định tư pháp trong tố tụng do chưa được quy định trong Pháp lệnh. Vì vậy, các tổ chức, cá nhân thực hiện giám định khi được triệu tập tham dự phiên toà thì các chi phí như chi phí đi lại, lưu trú, ăn ở trong quá trình tham dự phiên toà chưa được các Toà án quan tâm, chi trả. Điều này dẫn đến các tổ chức, cá nhân thực hiện giám định vẫn phải thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Tòa án tuy nhiên không được bảo đảm về mặt tài chính và do đó phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thực hiện nhiệm vụ do điều kiện tài chính chưa được bảo đảm.
Bên cạnh đó, mặc dù Nghị định số 81/2014/NĐ-CP về quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng có quy định một số nội dung mang tính chất nguyên tắc chung về chi phí khấu hao máy móc, phương tiện, thiết bị và chi phí vật tư tiêu hao, chi phí sử dụng dịch vụ và chi phí khác, không có thêm quy định cụ thể nào về cơ chế tài chính, cách xác định từng chi phí cụ thể cần cho việc thực hiện giám định đối với từng loại tổ chức thực hiện giám định. Ngoài ra, Thông tư số 215/2015/TT-BTC ngày 31/12/2015 Bộ Tài chính chỉ hướng dẫn lập dự toán, chấp hành và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động trưng cầu giám định, định giá, triệu tập người làm chứng, người phiên dịch của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các quy định về chi phí giám định tư pháp chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Trong thời gian qua, các đơn vị chức năng của Bộ Công an, Bộ Y tế và một số bộ, ngành có liên quan đã rất nỗ lực trong việc nghiên cứu, tìm kiếm các cơ sở pháp lý để xây dựng văn bản hướng dẫn về chi phí giám định ở lĩnh vực của mình và báo cáo, trình Lãnh đạo các bộ, ngành chủ quản để ban hành văn bản hướng dẫn về chi phí giám định dựa trên cách tính và mức thu phí giám định tư pháp trong từng lĩnh vực cụ thể[4]. Tuy nhiên, do còn băn khoăn, lúng túng về thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn về chi phí giám định trong mỗi lĩnh vực có tính chất đặc thù là thẩm quyền của các Bộ ngành hay việc ban hành văn bản này là trách nhiệm của Bộ Tài chính – cơ quan chuyên quản về tài chính. Nguyên nhân chính theo tác giả xuất phát từ việc nhận định chi phí giám định trong tố tụng là phí hay lệ phí. Bởi lẽ, nếu là chi phí giám định là phí thì thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn thuộc Bộ Tài chính. Tuy nhiên, nếu nhận định chi phí giám định trong tố tụng là chi phí thì các Bộ, ngành có liên quan sẽ trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình ban hành văn bản hướng dẫn về chi phí giám định. Do đó, đến nay, các Bộ ngành vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn về chi phí giám định.
Thứ ba, thực tế cho thấy, phần lớn các vụ việc giám định tư pháp ở nước ta được trưng cầu, yêu cầu và thực hiện đều thuộc về lĩnh vực kỹ thuật hình sự, pháp y, pháp y tâm thần, tài chính, ngân hàng, giao thông vận tải, nông nghiệp… do các tổ chức giám định tư pháp công lập trong ngành công an, y tế, hay các bộ, cơ quan ngang bộ, các Sở, ngành chuyên môn ở địa phương hoặc đơn vị sự nghiệp có thu của Nhà nước thực hiện. Một số ít vụ việc được thực hiện bởi tổ chức là doanh nghiệp, hoặc đơn vị tự hoạch toán tài chính… Do đó, ngay sau khi Luật phí và lệ phí năm 2015 được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 thì các Thông tư của Bộ Tài chính quy định về phí giám định tư pháp đã được bãi bỏ và phải chuyển sang thực hiện theo quy định về chi phí giám định trong khi việc ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện chi phí giám định tư pháp chưa được ban hành.
Thứ tư, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể để có thể thực hiện chi phí giám định nên chi phí giám định ở lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần vẫn đang vận dụng và áp mức thu phí của Thông tư số 34/2014/TT-BTC ngày 21/3/2014 của Bộ Tài chính về phí giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y và Thông tư số 35/2014/TT-BTC ngày 21/3/2014 của Bộ Tài chính về phí giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y tâm thần. Tuy nhiên, mức thu quy định trong các văn bản này đã trở lên bất cập, không còn phù hợp với biến động giá cả, thị trường vật tư, máy móc của thực tế. Vì vậy, các tổ chức giám định trong hai lĩnh vực này gặp khá nhiều khó khăn về nguồn thu tài chính.
2. Gợi mở và kiến nghị hoàn thiện
Để khắc phục những vướng mắc, khó khăn về chi phí giám định trong hoạt động giám định và những bất cập, không phù hợp với thực tế về chi phí giám định tư pháp như đã nêu trên, theo tác giả, việc nghiên cứu, sửa đổi Pháp lệnh về chi phí giám định, định giá tài sản, chi phí người làm chứng, người phiên dịch trong hoạt động tố tụng là cần thiết. Trước mắt, Toà án nhân dân tối cao cần tiến hành rà soát, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn thi hành Pháp lệnh này. Trên cơ sở đó, tiếp tục chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan có liên quan đề xuất sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh để bảo đảm khắc phục những bất cập trong thực tiễn cũng như để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành.
Theo tác giả, để chi phí giám định tư pháp được thực hiện thì trong quá trình nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành cần lưu ý về các yếu tố bảo đảm sau: (i) Cơ sở pháp lý, cần có quy định cụ thể, theo đó, cần có hướng dẫn cụ thể về cách tính các loại chi phí cấu thành nên chi phí giám định của mỗi một loại việc, ví dụ như tiền lương của người làm giám định thì phải có một cách tính chung nhất vì lương của lực lượng vũ trang sẽ rất khác so với khối hành chính khác, chi phí máy móc thì tính như thế nào cho hợp lý bởi vì nếu tính theo kiểu khấu hao công nghệ thì khấu hao nhanh, chi phí vô cùng lớn sẽ ra mức rất lớn... Vấn đề này cần có một cơ quan thống nhất hướng dẫn, ban hành quy định cụ thể để thực hiện thống nhất. (ii) Xác định đơn vị thực hiện giám định chuyển sang cơ chế đơn vị sự nghiệp công lập, việc xã hội hóa hoạt động này sẽ giải quyết được tình trạng khó khăn do hiện nay đa số các vụ việc, lĩnh vực giám định do cơ quan nhà nước thực hiện và ngân sách nhà nước bảo đảm. (iii) Ngân sách nhà nước phải bảo đảm để chi trả đầy đủ theo giá thị trường.
Bên cạnh đó, tác giả cũng cho rằng, trong quá trình đề xuất xây dựng, sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về chi phí tố tụng cần quan tâm đến một số nội dung lớn, gồm:
(i) Mở rộng nội hàm chi phí giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng bao gồm chi phí cần cho việc trưng cầu, thực hiện giám định và chi phí cần thiết cho việc tham gia tố tụng của người giám định theo triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng;
(ii) Xác định rõ chi phí cần cho việc thực hiện giám định theo cơ chế phí hay giá cho phù hợp, tương thích với Luật Ngân sách nhà nước, Luật Phí và lệ phí. Trong trường hợp chi phí cần cho việc thực hiện giám định không phải là phí hay giá thì cần xác định cụ thể, rõ ràng, bảo đảm phù hợp với Luật Ngân sách nhà nước và các quy định khác có liên quan để bảo đảm thực hiện. Đơn cử như việc các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện giám định tư pháp được coi là một nhiệm vụ, trách nhiệm theo quy định tại khoản 1 Điều 37 của Luật Giám định tư pháp (được sửa đổi, bổ sung năm 2021) thì cần có cơ chế giao kinh phí thực hiện nhiệm vụ giám định của cơ quan, đơn vị đó cho phù hợp.
(iii) Quy định rõ cơ chế tài chính và các nội dung chi phí giám định tư pháp phù hợp với từng loại hình cơ quan, tổ chức thực hiện giám định (hoạt động theo từng cơ chế tài chính khác nhau), gồm 4 nhóm sau: Cơ quan hành chính nhà nước; Đơn vị sự nghiệp công lập; Lực lượng vũ trang; Tổ chức ngoài khu vực nhà nước để bảo đảm khả thi, phù hợp với từng loại chủ thể thực hiện giám định, khắc phục những vướng mắc, khó khăn tồn tại trong thời gian qua.
Triệu Văn Doan, Hoàng Thúy Hằng, Nguyễn Hữu Chỉnh
Viện KSND huyện Thường Tín
[1] Một số Thông tư đã được ban hành như: Thông tư số 35/2014/TT-BTC ngày 21/3/2014 về phí giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y tâm thần; Thông tư số 50/2014/TT-BTC ngày 21/3/2014 về phí giám định tư pháp trong lĩnh vực kỹ thuật hình sự, Thông tư số 97/2014/TT-BTC ngày 24/7/2014 về phí giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin truyền thông.
[2] Khoản 1 Điều 3 Luật Phí và lệ phí năm 2015 quy định Phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả nhằm cơ bản bù đắp chi phí và mang tính phục vụ khi được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cung cấp dịch vụ công được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí năm 2015.
[3] Khoản 2 Điều 3 Luật Phí và lệ phí năm 2015 quy định Lệ phí là khoản tiền được ấn định mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước cung cấp dịch vụ công, phục vụ công việc quản lý nhà nước được quy định trong Danh mục ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí năm 2015.
[4] Báo cáo số 1273/BTTP-TTr-BTTP&QLGĐTP ngày 23/12/2022 về rà soát quy định của pháp luật về chi phí trong hoạt động giám định tư pháp.