Vướng mắc trong việc thực hiện Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - TAND tối cao - Viện KSND tối cao
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - TAND tối cao - Viện KSND tối cao hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản có hiệu lực thi từ ngày 15/7/1997. Quá trình thực hiện thông tư trên đến nay nảy sinh vướng mắc trong việc người thi hành án có phải chịu khoản lãi đối với số tiền chậm nộp phạt theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm nộp phạt hay không? Về vấn đề này, hiện nay có 2 luồng quan điểm và áp dụng khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất là không được phép tính lãi đối với khoản tiền phạt trong các Bản án hình sự, bởi lẽ: tại khoản 2 mục I của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - TAND tối cao - Viện KSND tối cao quy định: “ Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử Toà án chỉ quyết định mức tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên”.
Mục I của Thông tư liên tịch số 01/TTLT quy định:
“1. Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 01/7/1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó.
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 01/7/1996 hoặc tuy xảy ra trước ngày 01/7/1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền.
2. Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử toà án chỉ quyết định mức tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.
3. Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định, cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp toà án đều không phải quy đổi các khoản tiền đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.”
Quan điểm thứ hai là được phép tính lãi đối với khoản tiền phạt trong các Bản án hình sự, bởi lẽ tại khoản 1 mục III của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - TAND Tối cao - Viện KSND tối cao quy định:
“1. Để bảo đảm quyền lợi cho bên được thi hành án, hạn chế việc bên phải thi hành án cố tình dây dưa, không tự nguyện thi hành án, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án, khoản tiền phải nộp để đưa vào ngân sách Nhà nước (tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, tiền phạt), Toà án phải quyết định rõ trong bản án hoặc quyết định là kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp được hướng dẫn tại khoản 3 phần 1 Thông tư này về các khoản vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng. Khi tính lãi chỉ tính lãi số tiền còn phải thi hành án, mà không tính lãi của số tiền lãi chưa trả trong quá trình thi hành án”.
Do có 2 quan điểm trái nhau nên trong thực tế các Tòa án áp dụng Thông tư 01 cũng không thống nhất, có nơi áp dụng, có nơi không áp dụng, thậm chí tại một Tòa án thì có Thẩm phán áp dụng và cũng có Thẩm phán không áp dụng việc bị cáo phải chịu lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian tại thời điểm nộp phạt khoản tiền phạt chậm thi hành.
Theo tác giả, cách hiểu và áp dụng quy định của Thông tư liên tịch số 01/TTLT theo quan điểm thứ 2 là đúng, bởi lẽ nội dung quy định tại Khoản 1, mục I của Thông tư liên tịch là lấy gạo làm chuẩn để thanh toán các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính, nhằm bảo đảm cho người được thi hành không bị thiệt hại nếu giá trị tiền VNĐ không được ổn định (Lạm phát). Tại điểm a khoản 1, mục I Thông tư quy định: “trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương”. Như vậy, tại khoản 1 mục I của Thông tư liên tịch không quy định tính lãi, mà chỉ quy định lấy Gạo làm chuẩn, nếu giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc thi hành án đối với các khoản tiền phạt trong các vụ án hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, bởi lẽ nhiều trường hợp người phải thi hành án không có tài sản hoặc có tài sản nhưng tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án hoặc không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án. Xuất phát từ thực tiễn đó, Nhà nước ta đã chính sách miễn giảm thi hành án đối với các khoản tiền phạt, khoản tiền án phí đối với đối với những người phải thi hành án và được quy định cụ thể tại điều 61 Luật thi hành án dân sự năm 2014. Liên ngành Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Viện KSND tối cao - TAND tối cao cũng đã ban hành Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT ngày 15/9/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước.
Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 được ban hành đã lâu, một số quy định không còn phù hợp với tình hình hiện nay (như việc quy đổi ra gạo), quy định về việc tính lãi suất do chậm thi hành hình phạt tiền còn gây ra những cách hiểu khác nhau, dẫn đến áp dụng không thống nhất trên thực tế. Do đó, đề nghị Liên ngành Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - TAND tối cao - Viện KSND tối cao nên xem xét sửa đổi Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 theo hướng không tính lãi đối với khoản tiền phạt chậm nộp thi hành án.
Trên đây là một số ý kiến về việc thực hiện Thông tư liên tịch số 01/TTLT, tác giả mạnh dạn xin được nêu ra với mong muốn được cùng trao đổi với các đồng nghiệp, để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Nguyễn Văn Lợi - Viện KSND huyện Phú Xuyên