Một số khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng liên quan đến tài sản bảo đảm của hộ gia đình
Tranh chấp hợp đồng tín dụng (HĐTD)là một trong các dạng tranh chấp phổ biến hiện nay được giải quyết tại Tòa án nhân dân các cấp. Trong những năm gần đây, số lượng vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng được đưa ra giải quyết tại tòa án gia tăng và có chiều hướng ngày càng phức tạp, tòa án gặp một số khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các vụ án thuộc loại này. Thực tiễn khi giải quyết các tranh chấp HĐTD liên quan đến tài sản bảo đảm còn nhiều vấn đề phức tạp đòi hỏi người giải quyết phải có trình độ chuyên môn sâu, nắm vững quy định pháp luật và áp dụng pháp luật chính xác. Hiện nay, một số quy định của pháp luật về tài sản bảo đảm liên quan đến HĐTD khi giải quyết chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, chưa rõ ràng, gây nhiều tranh cãi cả về lý luận và thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó, nhận thức pháp luật của các cấp tòa án còn chưa thống nhất dẫn đến rất nhiều bản án giải quyết tranh chấp HĐTD có tài sản bảo đảm của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhưng đương sự vẫn khiếu kiện kéo dài, hoặc không thi hành được trên thực tế.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp HĐTD liên quan đến tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất gặp một số khó khăn, vướng mắc như sau:
Về xác định chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất:
Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 cũng như BLDS 2015, việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật đất đai. Hiện nay, khi giải quyết có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu lực của hợp đồng thế chấp cũng như hậu quả của việc giải quyết liên quan đến chủ thể ký kết của hộ gia đình sử dụng đất.
Ví dụ vụ án giữa nguyên đơn là Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam với bị đơn là Công ty TNHH du lịch và thương mại Giang Trung và người liên quan là hộ gia đình ông Nguyễn Văn Nhâm, hộ ông Nguyễn Văn Thìn và bà Nguyễn Thị Tình. Tài sản đảm bảo cho khoản vay là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 190 tờ bản đồ số 11 tại thôn Điền Thanh xã Tân Dân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội theo giấy CNQSDĐ số V834464 do UBND huyện Sóc Sơn cấp cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn Nhâm. Và Hợp đồng thế chấp với tài sản là quyền sử dụng 300m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 327 tờ bản đồ số 8 tại thôn Môn Tự, xã tân Dân huyện Sóc Sơn Hà Nội theo Giấy CNQSDĐ số AC648059 do UBND huyện Sóc Sơn cấp ngày 4/5/2004 cấp cho ông Nguyễn Văn Thìn, bà Nguyễn Thị Tình.
Thửa đất số 190 được cấp GCNQSDĐ đứng tên hộ gia đình ông Nhâm. Thời điểm được cấp GCNQSDĐ hộ gia đình ông Nhâm gồm 7 thàng viên gồm: Ông Nguyễn Văn Nhâm, Bà Phạm Thị Thành, anh Nguyễn Văn Long, anh Nguyễn Văn Thanh, chị Bùi Thị Dung, cháu Nguyễn Quang Trường (1997), cháu Nguyễn Quang Hiếu (2001). Nhưng khi ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử đất và tài sản gắn liền với đất thì chỉ có Ông Nhâm, bà Thành, anh Long, chị Dung ký còn anh Nguyễn Văn Thanh là con ông Nhâm không tham gia ký kết. Trên đất còn có ngôi nhà 02 tầng có công sức đóng góp xây dựng của tất cả các thành viên trong đó có anh Thanh.
Xét về hiệu lực của hợp đồng thế chấp khi thiếu thành viên trong hộ gia đình tham gia ký kết hiện nay có các quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng hợp đồng thế chấp không có hiệu lực do bỏ sót thành viên trong hộ gia đình khi ký kết (theo Điều 109, Điều 128, Điều 410 Bộ luật dân sự 2005, Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn Luật đất đai 2003) Khi ký kết hợp đồng thế chấp liên quan đến hộ gia đình sử dụng đất phải được tất cả các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự (từ đủ 15 tuổi trở lên) trong hộ gia đình ký tên hoặc ủy quyền cho người khác ký. Tòa án cấp sơ thẩm khi giải quyết vụ án phải xác minh làm rõ tại thời điểm cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình gồm những ai có quyền sử dụng đất chung và những ai sở hữu chung nhà ở, tài sản khác trên đất (ngoài quyển sổ hộ khẩu thì phải thu thập toàn bộ hồ sơ cấp đất tại cơ quan có thẩm quyền cấp đất, xác minh tại chính quyền địa phương, những hộ xung quanh…) để đưa những người này vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, làm rõ họ có biết việc các thành viên khác đem tài sản đi thế chấp hay không? họ có đồng ý hay không? từ đó xác định hợp đồng thế chấp có hợp pháp hay không mới có căn cứ để quyết định xử lý tài sản đảm bảo đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên theo đúng qui định của pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng hợp đồng thế chấp có hiệu lực. Do nguồn gốc là đất sử dụng trước năm 1980 hồ sơ sổ sách mang tên ông Nguyễn Văn Nhâm. Đất là do cha ông để lại cho ông Nguyễn Văn Nhâm, khi các anh Long, anh Thanh được sinh ra thì nhà đất đã có sẵn. Như vậy, nguồn gốc nhà đất tại thửa 190 được cấp GCNQSDĐ đứng tên hộ gia đình ông Nhâm là của vợ chồng ông Nhâm bà Thành. Theo quy định tại Điều 106, Điều 108 BLDS thì tài sản chung của hộ gia đình do các thành viên trong hộ đóng góp cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung của hộ. Theo quy định trên thì nguồn gốc nhà đất của gia đình ông Nhâm không phải do các thành viên trong hộ là các con trai, con dâu, các cháu ông Nhâm cùng nhau đóng góp nên mà có, cũng không có văn bản thỏa thuận nào thể hiện đây là tài sản chung của cả hộ gia đình mặc dù GCNQSDĐ cấp cho hộ gia đình ông Nhâm nhưng thực chất chỉ là của vợ chồng ông Nhâm. Do đó, trong trường hợp các thành viên trong hộ gia đình gồm có ông Nhâm, bà Thành, anh Long, chị Dung đã đồng ý ký vào hợp đồng thế chấp để làm tài sản bảo đảm là đã đủ căn cứ. Đối với anh Thanh sau này tách khẩu sinh sống ở nơi khác không liên quan đến khối tài sản đem đi thế chấp của các thành viên trong hộ nên không tham gia ký kết hợp đồng thế chấp là đúng. Theo quy định tại Điều 107 BLDS 2005 thì Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các quan hệ dân sự vì lợi ích chung của hộ. Chủ hộ có thể là cha, mẹ hoặc một thành viên đã thành niên. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình. Do đó, ngân hàng được quyền phát mại tài sản thế chấp.
Quan điểm thứ ba cho rằng Hợp đồng thế chấp vẫn có hiệu lực thi hành: Do đa số các thành viên trong hộ gia đình đã ký kết hợp đồng, vì vậy các bên phải chịu trách nhiệm với việc thực hiện giao dịch đó. Dành quyền khởi kiện cho các thành viên còn lại của hộ gia đình không được tham gia ký kết hợp đồng thế chấp theo quy định tại Điều 104 BLDS 2015 để đảm bảo quyền lợi cho họ.
Do pháp luật quy định không rõ ràng hộ gia đình gồm những ai có quyền sử dụng đất chung và GCNQSDĐ cấp cho hộ gia đình cũng chỉ ghi tên người đại diện hộ nên có cách hiểu khác nhau dẫn đến cách giải quyết không thống nhất.
Luật Đất đai 2013 đã đưa ra 03 tiêu chí xác định Hộ gia đình sử dụng đất gồm: (i) Dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng; (ii) Đang sống chung; (iii) Có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, căn cứ nào để xác định tiêu chí “đang sống chung” thì lại chưa có hướng dẫn cụ thể. Trên thực tế, một số Tòa án căn cứ sổ hộ khẩu tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ký giao dịch bảo đảm để xác định các thành viên Hộ gia đình có quyền ký hợp đồng bảo đảm; một số Tòa án khác lại căn cứ vào Sổ hộ khẩu tại thời điểm cấp sổ hộ khẩu để xác định các thành viên có quyền đối với Tài sản bảo đảm hoặc căn cứ vào Hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận để xác định quyền tài sản. Trong khi thực tế, thời điểm cấp sổ với thời điểm đề nghị cấp có thể cách xa nhau và trong khoảng thời gian chờ xét cấp sổ thì một số thành viên đã tách khẩu. Cách xử lý khác nhau của Tòa án dẫn đến tình trạng một số khoản vay có tài sản bảo đảm có thể trở thành không có tài sản bảo đảm (nếu Tòa án tuyên hợp đồng bảo đảm vô hiệu vì giao dịch bảo đảm thiếu chữ ký của thành viên của hộ gia đình) và ảnh hưởng lớn quyền chủ nợ hợp pháp của tổ chức tín dụng, công ty VAMC nhận bảo đảm.
Để giải quyết vướng mắc này, tại văn bản số 152/TANDTC-PC, TANDTC đã hướng dẫn việc xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 101 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 và hướng dẫn tại điểm 4 phần III Giải đáp số 01/2017 ngày 07-4-2017 của Tòa án nhân dân tối cao về một số vấn đề nghiệp vụ, theo đó hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Khi giải quyết vụ án dân sự mà cần xác định thành viên của hộ gia đình có quyền sử dụng đất, thì thời điểm để xác định hộ gia đình có bao nhiêu thành viên có quyền sử dụng đất là thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất. Việc xác định ai là thành viên hộ gia đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xác định thành viên hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm căn cứ giải quyết vụ án và đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, TANDTC cũng hướng dẫn khi giải quyết vụ án dân sự, ngoài những người là thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất, Tòa án phải đưa người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất của hộ gia đình, người có công sức đóng góp làm tăng giá trị quyền sử dụng đất hoặc tài sản trên đất tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Thiết nghĩ, cần có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể hơn về khái niệm hộ gia đình phù hợp và thống nhất với quy định về hộ gia đình trong các văn bản pháp luật khác, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các thành viên trong hộ gia đình đối với tài sản thuộc sở hữu chung cũng như đảm bảo quyền lợi của các tổ chức tín dụng, ngân hàng khi có tài sản thế chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình.
Hồ Khuyên – Phòng 10 VKSTPHN