Một số khó khăn và giải pháp về công tác quản lý, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
Chiều ngày 17/4/2023, Viện KSND quận Hai Bà Trưng chủ trì tổ chức Hội nghị liên ngành sơ kết 3 năm thực tiễn thi hành Thông tư liên tịch số 01/2020/TTLT ngày 01/6/2020 của liên ngành tư pháp trung ương, quy định phối hợp thực hiện một số điều của bộ luật tố tụng hình sự về quản lý, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ (gọi tắt là Thông tư liên tịch số 01/2020) giữa các cơ quan tư pháp quận Hai Bà Trưng.

Toàn cảnh Hội nghị
Tham dự Hội nghị có đồng chí Nguyễn Văn Thuận - Viện trưởng Viện KSND quận Hai Bà Trưng, chủ trì Hội nghị. Đồng chủ trì còn có đồng chí Trương Văn Hồng - Trưởng Công an quận, Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra và đồng chí Phạm Xuân Thủy - Phó Chánh án phụ trách TAND quận. Ngoài ra, Hội nghị còn có các đồng chí là Phó Viện trưởng Viện KSND, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Phó Chánh án TAND quận cùng các đồng chí Chỉ huy các Đội điều tra, các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán của ba ngành tham dự.
.jpg)
Đồng chí Trương Văn Hồng - Trưởng Công an quận, Thủ trưởng Cơ quan CSĐT quận Hai Bà Trưng
phát biểu tại Hội nghị
Tại Hội nghị, có 31 ý kiến tham luận của các đồng chí là Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán đánh giá tình hình thực trạng công tác quản lý, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ. Các ý kiến tham luận đã chỉ ra những tồn tại, nguyên nhân chủ quan, khách quan và chỉ ra 9 khó khăn trong công tác quản lý, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ, đồng thời cũng đưa ra 6 giải pháp khắc phục như sau:
I. Khó khăn
1. Về công tác quản lý hồ sơ: Do công tác lưu trữ giai đoạn trước đây chưa được khoa học, chặt chẽ, nên công tác bàn giao, lưu trữ hồ sơ không được đảm bảo; hệ thống sổ sách, theo dõi các vụ án, vụ việc còn thiếu do đơn vị chuyển trụ sở nhiều lần… dẫn đến tình trạng các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ bị thiếu tài liệu tố tụng, cán bộ thụ lý nhận lại hồ sơ gặp khó khăn trong quá trình khắc phục hồ sơ.
2. Khó khăn trong việc truy tìm đối tượng: Một số hồ sơ tạm đình chỉ hết thời hiệu không xác định được địa chỉ của người tố giác, người có liên quan trực tiếp đến vụ việc, các nhân chứng, bị hại trong một số vụ án tạm đình chỉ điều tra đã thay đổi địa chỉ cư trú, phương thức liên lạc, gây khó khăn cho quá trình thu thập lại các tài liệu làm căn cứ phục hồi giải quyết... gây ảnh hưởng đến quá trình cũng như kết quả giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ.
3. Khó khăn trong việc định giá tài sản: Đối với những tin báo về những tội phạm xâm phạm quan hệ sở hữu cần thiết phải định giá tài sản: nhiều trường hợp Hội đồng định giá từ chối định giá do không thu hồi được tài sản, Cơ quan điều tra đã yêu cầu nhưng người bị hại không cung cấp được hóa đơn chứng từ (mua bán qua mạng, mua bán xách tay từ nước ngoài, để thất lạc, không còn giấy tờ mua bán). Cơ quan điều tra ra Quyết định tạm đình chỉ do chưa có kết luận định giá căn cứ điểm a, khoản 1, điều 148 BLTTHS. Tới nay đã có kết luận của hội đồng là từ chối định giá. Quá trình xác minh rà soát camera, rà soát nhân chứng không có kết quả, khám nghiệm hiện trường không có dấu vết đột nhập, cậy phá. Vậy, khi có kết luận định giá có phục hồi tiếp tục xác minh không? Hết thời hạn phục hồi xác minh thì tiếp tục tạm đình chỉ (theo căn cứ nào?) hay ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự (không có giá trị)? Cần thiết có hướng dẫn cụ thể hóa đối với từng loại tài sản (xe máy, vàng bạc, điện thoại, động sản có đăng ký, động sản không có đăng ký) xử lý ra sao trong trường hợp hội đồng định giá từ chối định giá.
4. Khó khăn trong việc lấy kết quả trả lời của các cơ quan hữu quan: Nhiều vụ việc, do chưa có văn bản trả lời của các cơ quan, tổ chức (đơn vị chuyên môn nghiệp vụ, ngân hàng, doanh nghiệp, tổ chức viễn thông) nên phải ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết. Cơ quan điều tra cũng đã ban hành văn bản đôn đốc để sớm có văn bản trả lời nhưng cơ bản các đơn vị này trả lời rất chậm, rất sơ sài, thậm chí từ chối cung cấp thông tin gây ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ việc. Ngoài ra, khi thu thập thông tin chủ tài khoản và sao kê tài khoản, một số ngân hàng yêu cầu phải có quyết định khởi tố vụ án hình sự mới tiến hành cung cấp thông tin, trong khi vụ việc đang giải quyết ở giai đoạn tin báo.
5. Đối với việc thu thập thông tin của các mạng xã hội: Hiện nay, một số doanh nghiệp quản lý mạng xã hội như Facebook, twiter, viber... là các doanh nghiệp nước ngoài, máy chủ để tại nước ngoài nên không thể trích xuất các thông tin (vị trí, ngày giờ truy cập) do đó các cơ quan chức năng không thể cung cấp thông tin; một số doanh nghiệp viễn thông trong nước như công ty VNG quản lý mạng xã hội zalo, mặc dù là một doanh nghiệp trong nước có máy chủ tại Việt Nam nhưng việc cung cấp thông tin cũng rất hạn chế.
6. Đối với các vụ việc có đối tượng lừa đảo liên quan tới yếu tố nước ngoài (tài khoản thụ hưởng thuộc nước ngoài, lấy danh nghĩa công ty nước ngoài, thông tin cá nhân là người nước ngoài). Hiện nay đối với Cơ quan điều tra cấp quận việc không có thẩm quyền thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp, gặp khó khăn trong việc xác minh làm rõ các đối tượng có yếu tố nước ngoài nêu trên.
7. Đối với căn cứ tại điểm a, khoản 1, Điều 148 BLTTHS:
Trong các tội Cố ý gây thương tích, nhiều trường hợp Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định, đã bàn giao cho Trung tâm pháp y các tài liệu về chứng thương, hồ sơ bệnh án, đã thông báo giấy hẹn cho người bị hại nhưng bị hại không đi giám định thương tích, nên khi hết thời hạn xác minh phải tạm đình chỉ. Tuy nhiên, căn cứ để ra Quyết định tạm đình chỉ trường hợp này thì hiện nay có hai quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng cần áp dụng điểm a, khoản 1, Điều 148 BLTTHS, đó là: “a) Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả”. Lý do họ đưa ra là bởi Cơ quan điều tra đã tiến hành các thủ tục để trưng cầu giám định, còn việc chưa có kết quả giám định (do bị hại không đi giám định) là yếu tố khách quan, nên không thể nói họ chưa trưng cầu giám định được. Do đó, khi chưa có kết quả giám định thì phải áp dụng điểm a, khoản 1, Điều 148 BLTTHS trong trường hợp này là chính xác nhất.
Tuy nhiên, quan điểm thứ hai cho rằng phải áp dụng điểm b, khoản 1, Điều 148 BLTTHS: “b) Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả” mới đúng. Theo quan điểm này, vấn đề chính ở đây không phụ thuộc vào thẩm quyền của cơ quan giám định, vì mặc dù họ có tài liệu, bệnh án nhưng không có con người để giám định thì sẽ mãi mãi không thể ra được kết luận giám định. Vì vậy, trường hợp này phụ thuộc hoàn toàn vào sự có mặt của bị hại, trong đó Cơ quan điều tra đã đưa giấy hẹn cho bị hại, yêu cầu bị hại đến giám định thương tích nhưng bị hại không đi thì phải thuộc trường hợp “Đã yêu cầu... cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả”.
8. Đối với các trường hợp quy định tại khoản 3 điều 148 BLTTHS: trong trường hợp tạm đình chỉ xác minh đơn tố giác, các hoạt động xác minh sẽ dừng lại, chỉ trừ việc trưng cầu giám định, định giá và tương trợ tư pháp vẫn được tiếp tục tiến hành. Như vậy đối với các vụ việc tạm đình chỉ do chưa triệu tập, ghi lời khai người bị tố giác, Cơ quan điều tra vẫn cần thiết phải triệu tập, xác minh tại nơi cư trú, nơi thường trú của người bị tố giác nhưng nếu thực hiện các hoạt động này trong giai đoạn tạm đình chỉ thì không được vì chưa chưa có quy định nào hướng dẫn.
9. Một số vụ án tạm đình chỉ Viện kiểm sát đã yêu cầu CQĐT xác minh yêu cầu dân sự của bị hại. Song vì thời gian đã lâu, bị hại chuyển chỗ ở, không xác định được nơi ở hiện tại nên ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án tạm đình chỉ.
.jpg)
Đồng chí Trần Mạnh Hà – Phó Viện trưởng Viện KSND quận Hai Bà Trưng
phát biểu tại Hội nghị
II. Giải pháp
Để tháo gỡ những khó khăn nêu trên, Lãnh đạo liên ngành tư pháp quận Hai Bà Trưng thống nhất đưa ra 6 giải pháp như sau:
1. Liên ngành tư pháp quận tiếp tục xây dựng kế hoạch liên ngành về quản lý vụ án, vụ việc tạm đình chỉ, tạm dừng xác minh, trong đó đề ra chi tiết thời gian, tiến độ giải quyết của từng tháng và ấn định thời hạn phải hoàn thành. Hàng tuần tổ chức họp liên ngành để đôn đốc, kiểm tra tiến độ giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác này.
2. Tăng cường cho Tổ thụ lý tin báo những Kiểm sát viên, Điều tra viên có kinh nghiệm, chuyên môn giỏi, để làm tốt công tác phân loại tin báo, đảm bảo việc thụ lý tin báo được chính xác ngay từ đầu. Từ đó hạn chế thụ lý những tin báo không có dấu hiệu hình sự, dẫn đến mất nhiều thời gian, công sức của cán bộ hai ngành, làm ảnh hưởng đến tiến độ điều tra, xác minh chung, dẫn đến không đủ thời gian để làm hết các nội dung, yêu cầu và phải tạm đình chỉ vụ án, vụ việc.
3. Thực hiện nghiêm túc việc giảm 25% tỷ lệ vụ án, vụ việc tạm đình chỉ theo chỉ đạo của liên ngành cấp trên, trong đó:
- Về phía cán bộ: Cần đẩy nhanh tiến độ điều tra, xác minh để giải quyết triệt để các vụ án, tin báo ngay từ khi thụ lý, những việc nào có thể làm được thì làm ngay, tránh kéo dài không đáng có, dẫn đến phải tạm đình chỉ. Kiểm sát viên xây dựng Yêu cầu điều tra, Yêu cầu xác minh có chất lượng và bám sát hồ sơ, phối hợp với Điều tra viên để đánh giá tài liệu, chứng cứ, thống nhất nội dung nào cần làm, không cần làm để giảm thiểu những công việc không cần thiết. Từ đó, từ đó tập trung giải quyết dứt điểm được các vụ việc, không bị lan man kéo dài, dẫn đến phải tạm đình chỉ.
- Về phía Lãnh đạo: Lãnh đạo liên ngành tăng cường việc sớm chỉ đạo về đường lối giải quyết để Điều tra viên, Kiểm sát viên có định hướng thực hiện và sát sao trong việc kiểm tra, đôn đốc cán bộ thực hiện ý kiến chỉ đạo của mình, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, cán bộ nhận chỉ đạo xong rồi bỏ đấy không thực hiện. Bên cạnh đó, chỉ huy các đội điều tra đánh giá khối lượng công việc để phân công nhiệm vụ Điều tra viên cho cân đối, phù hợp với tình hình, tính chất vụ việc.
4. Kiểm sát viên cần phải chủ động, trách nhiệm hơn trong công tác THQCT, KSĐT và trong công tác rà soát căn cứ tạm đình chỉ, không được có tâm lý cho việc điều tra, xác minh và rà soát căn cứ tạm đình chỉ là việc của Điều tra viên, chỉ cần đôn đốc là hết trách nhiệm. Kiểm sát viên cần đồng hành với Điều tra viên trên mọi mặt trận, sẵn sàng sát cánh, chung tay để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án, vụ việc.
5. Hiện nay dữ liệu dân cư đã được nhập và quản lý trên toàn quốc, nên Cơ quan điều tra cần tích cực khai thác dữ liệu dân cư để phục vụ việc điều tra, xác minh các đối tượng bỏ trốn hoặc triệu tập nhưng không đến cơ quan điều tra làm việc, nhằm hạn chế việc tạm đình chỉ do không xác định được đối tượng đang ở đâu.
6. Về quản lý hồ sơ: Thực hiện đúng quy trình và chặt chẽ về việc bàn giao hồ sơ, đặc biệt là việc bàn giao hồ sơ đối với những người nghỉ hưu hoặc chuyển công tác. Xây dựng quy trình quản lý và lưu trữ hồ sơ tạm đình chỉ khoa học, bài bản hơn để phục vụ cho công tác phục hồi, rà soát căn cứ tạm đình chỉ hàng tháng.
.jpg)
Đồng chí Nguyễn Văn Thuận - Quận ủy Viên, Viện trưởng Viện KSND quận Hai Bà Trưng
phát biểu tại Hội nghị
Kết luận Hội nghị, đồng chí Nguyễn Văn Thuận – Quận uỷ viên, Viện trưởng Viện KSND quận ghi nhận và đánh giá cao sự nỗ lực, cố gắng của các đồng chí cán bộ trong khối tư pháp đã tích cực rà soát, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ trong thời gian qua. Đồng chí cũng đề nghị Liên ngành tư pháp quận tiếp tục phối hợp chặt chẽ hơn nữa, đẩy nhanh tiến độ giải quyết và nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác quản lý, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ trong thời gian tới./.
Một số Hình ảnh tại Hội nghị:
.jpg)


Trần Mạnh Hà - Viện KSND quận Hai Bà Trưng