NQ326/2016/UBTVQH

Administrator 0 409 Đánh giá bài viết: Không có đánh giá
NGHỊ QUYẾT QUY ĐỊNH VỀ MỨC THU, MIỄN, GIẢM, THU, NỘP, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ÁN PHÍ VÀ LỆ PHÍ TÒA ÁN

NQ 01/2017/NQ-HĐTP

Administrator 0 270 Đánh giá bài viết: Không có đánh giá
Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành biểu mẫu TTDS

NQ 02/2017/NQ-HĐTP

Administrator 0 370 Đánh giá bài viết: Không có đánh giá
Nghị quyết Số: 02/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về việc ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng hành chính
RSS
Tin mới nhất

Cần thiết áp dụng các quy định BLHS năm 2015 theo hướng có lợi cho người phạm tội

Huỳnh Phương Linh

           Bộ luật hình sự là một đạo luật quan trọng, đánh dấu một bước phát triển dài trong công cuộc cải cách tư pháp của nước ta. Bộ luật hình sự là công cụ sắc bén để đấu tranh phòng ngừa tội phạm, góp phần tích cực trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; duy trì trật tự an toàn xã hội; thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.

           Bộ luật hình sự năm 2015, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27/11/2015 và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016; kèm theo Bộ luật này là Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật hình sự, kể từ ngày Bộ luật hình sự năm 2015 được công bố. Ngày 18/12/2015, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố Lệnh về việc công bố Bộ luật hình sự năm 2015 được Quốc Hội thông qua ngày 27/11/2015.

           Khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015, về hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian quy định: Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

           Điểm b, khoản 1, Điều 1 của Nghị quyết số: 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015, của Quốc Hội về việc thi hành Bộ luật hình sự, kể từ ngày Bộ luật hình sự năm 2015 được công bố quy định: Các điều khoản của Bộ luật hình sự năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, xóa bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích. Mặt khác Nghị quyết còn quy định: Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp tổ chức việc rà soát các văn bản có liên quan để kịp thời hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới hoặc đề nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới cho phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, bảo đảm hiệu lực của Bộ luật hình sự năm 2015.

           Như vậy, các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi cho người phạm tội phải được thi hành kể từ ngày 18/12/2015 nhưng thực tế đến nay chưa được thực hiện dẫn đến quyền lợi của một số bị can, bị cáo hoặc bị án chưa được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước. Trong phạm vi bài viết này, chỉ xin nêu ra một số trường hợp cụ thể để Kiểm sát viên được phân công tiến hành tố tụng vụ án hình sự nghiên cứu vận dụng đảm bảo đúng pháp luật, không gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo:

        - Quy định về chuẩn bị phạm tội: Chương III, phần tội phạm của Bộ luật hình sự năm 2015, quy định trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội ở phạm vi hẹp và giảm nhẹ hơn so với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Khoản 3 Điều 14 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về chuẩn bị phạm tội: Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Tức là chuẩn bị phạm tội mà phải chịu trách nhiệm hình sự đối với các Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản). Còn trường hợp người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội khác thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định trách nhiệm hình sự đối với người chuẩn bị phạm tội là phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc phạm một tội đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy quy định về chuẩn bị phạm tội của Bộ luật hình sự năm 1999 bao trùm rộng hơn và đối với tất cả các chủ thể không loại trừ người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, tội đặc biệt nghiêm trọng.

      - Quy định về đương nhiên xóa án tích: Khoản 2 Điều 64, Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về đương nhiên được xóa án tích: 03 năm trong trường hợp hình phạt tù đến 3 năm; 05 năm trong trường hợp hình phạt tù từ trên 3 năm đến 15 năm; 07 năm trong trường hình phạt tù từ trên 15 năm. Khoản 2 Điều 70, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về đương nhiên được xóa án tích: Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: 02 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. Bộ luật hình sự năm 2015 quy định thời gian đương nhiên xóa án tích ít hơn, có lợi cho người bị kết án so với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Từ quy định về đương nhiên xóa án tích của Bộ luật hình sự năm 2015 nên việc xem xét, đánh giá xác định tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm, tái phạm nguy hiểm) cũng được thay đổi đối với bị can, bị cáo đang trong giai đoạn tố tụng truy tố, xét xử theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo; nhiều bị can, bị cáo nay không bị phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm, tái phạm nguy hiểm) nữa.

     - Đối với một số tội Bộ luật hình sự năm 2015 quy định cấu thành tội, quy định khung hình phạt nhẹ hơn so với quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009. Như: khoản 1, Điều 249, tội Tàng trữ trái phép chất ma túy của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khoản 1, Điều 194, tội Tàng trữ trái phép chất ma túy của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Hoặc tội Đánh bạc, khoản 1, Điều 321, tội Đánh bạc của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng thì mới cấu thành tội (trừ trường hợp đã bị kết án về tội Đánh bạc, tội Tổ chức đánh bạc chưa được xóa án). Khoản 1, Điều 248, tội Đánh bạc của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 2.000.000 đồng thì mới cấu thành tội (trừ trường hợp có yếu tố định tội khác).

         Thực tế hiện nay đang có nhiều bị can, bị cáo đang bị điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 nhưng chưa được rà soát để áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109 ngày 27/11/2015 của Quốc Hội là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và bị án. Để Bộ luật hình sự năm 2015 đi vào cuộc sống và được thực hiện thống nhất, đảm bảo chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và bị án, thì người tiến hành tố tụng chủ động đề xuất Lãnh đạo áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109 ngày 27/11/2015 của Quốc Hội.

                                                        

                                                                      Đỗ Minh Tuấn - Phó Chánh Thanh tra

 

Bài viết trước Lễ công bố Quyết định điều động, bổ nhiệm lãnh đạo quản lý tại Viện KSND quận Ba Đình
Bài viết tiếp theo Chi bộ Viện KSND huyện Mê Linh kết nạp Đảng viên mới
In
3567 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.