Cần có hướng dẫn thực hiện Điều 74 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014)
Thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án dân sự cho thấy Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 cơ bản đã đáp ứng yêu cầu cho công tác thi hành án dân sự được hiệu quả hơn và có nhiều quy định về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự rõ ràng, dễ thực hiện hơn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện thi hành án cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung còn có vướng mắc tại điều 74 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung cần có văn bản hướng dẫn.
Tại điều 74 Luật Thi hành án dân sự quy định: Cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung
1. Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế.
Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án.
...
Như vậy điều 74 Luật thi hành án dân sự sủa đổi bổ sung năm 2014 quy định về việc cưỡng chế thi hành án đối với trường hợp là tài sản thuộc sở hữu chung. Việc quy định về việc cưỡng chế tài sản thuộc sở hữu chung để thi hành án đã cho thấy việc cần thiết phải đảm bảo mọi quyền lợi của người được thi hành án. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều người ( nhất là quyền sử dụng đất) còn gặp nhiều khó khăn bởi việc quy định tại điều 74 chưa quy định cụ thể việc thực hiện khởi kiện như thế nào? Tại điều 74 Luật thi hành án quy định có 3 chủ thể được khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án là:
- Các đồng sở hữu chung
- Người được thi hành án
- Chấp hành viên.
Tuy nhiên thực tế nếu người phải thi hành án tự nguyện thi hành án thì không phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Biện pháp cưỡng chế thi hành án chỉ áp dụng đối với người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành. Trong trường hợp CQ thi hành án xác định người phải thi hành án có tài sản là tài sản chung nhưng chây ỳ không tự nguyện thi hành án thì sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên khó khăn là việc để xác định đúng phần thuộc sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung phải do các đồng sở hữu chung thỏa thuận nhưng do người phải thi hành án đã không tự nguyện thì việc tự thỏa thuận không thể đạt được và cũng nhằm chây ỳ, kéo dài việc thi hành án thì những người đồng sở hữu chung ( do thường là anh em, họ hàng trong gia đình) cũng không thực hiện việc khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án. Khi các đồng sở hữu chung không khởi kiện thì đến người được thi hành án khởi kiện, tuy nhiên thực tế có trường hợp người được thi hành án không thực hiện quyền khởi kiện thì Chấp hành viên phải thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án. Luật thi hành án đã quy định đầy đủ mọi trường hợp để có thể xác định được phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung nhưng chưa có văn bản nào hướng dẫn thủ tục các đối tượng trên được khởi kiện tại Tòa án như thế nào? Mặc dù Nghị định 62/CP/2015 ngày 18/7/2015 cũng đã quy định chi tiết hướng dẫn thực hiện Luật thi hành án dân sự nhưng cũng mới chỉ quy định tại điểm b khoản 2 điều 24 về Kê biên tài sản thi hành án như sau:
a) ...
b) Trường hợp người phải thi hành án có chung tài sản với người khác mà đã xác định được phần tài sản, quyền tài sản của từng người thì Chấp hành viên kê biên phần tài sản, quyền tài sản của người phải thi hành án để thi hành án theo quy định tại Khoản 2 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự; trường hợp chưa xác định được phần quyền của người phải thi hành án thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự...
Đây là một vướng mắc thực tế đang diễn ra trong quá trình thực hiện Luật thi hành án dân sự, sửa đổi bổ sung năm 2014. Do vậy có trường hợp xác định người phải thi hành án có điều kiện để thi hành án là tài sản chung với 1 số đồng tài sản chung khác nhưng do chưa có hướng dẫn quy định cụ thể tư cách tố tụng của các chủ thể khi có yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung ( người được thi hành án, Chấp hành viên) cũng như thủ tục Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu chia tài sản chung trong trường hợp theo quy định điều 74 Luật thi hành án dân sự như thế nào nên không thể xác định được kỷ phần của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thực hiện cưỡng chế thi hành án. Do vậy cần đề nghị liên ngành Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao có văn bản hướng dẫn cụ thể việc các chủ thể là các đồng sở hữu chung, người được thi hành án và Chấp hành viên thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung đảm bảo việc thi hành án như thế nào? Quy định rõ trình tự, thủ tục Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện trong trường hợp này như thế nào? Việc áp dụng thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết yêu cầu này như thế nào ( có thể xác định việc giải quyết yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung trong việc đảm bảo nghĩa vụ thi hành án là một thủ tục tố tụng đặc biệt, rút gọn nhằm xác định cụ thể kỷ phần của người phải thi hành án trong khối tài sản chung) để việc thực hiện điều 74 Luật thi hành án dân sự được triệt để và đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án.
Tống Thị Thu Hiền - Phó Viện trưởng VKS Hoài Đức