Rút kinh nghiệm vụ án dân sự bị cấp phúc thẩm sửa, hủy

Nguyễn Thị Xuân Quỳnh

        Trong thời gian qua, công tác xét xử các vụ án dân sự vẫn còn tồn tại những thiếu sót, dẫn đến tình trạng bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy để giải quyết lại, gây kéo dài thời gian tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời làm giảm niềm tin của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Bài báo đi vào phân tích vụ án dân sự sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy do thu thập chứng cứ không đầy đủ, đánh giá chứng cứ không toàn diện; không thụ lý yêu cầu phản tố và đưa thiếu người tham gia tố tụng.

        Nội dung vụ án:

        Nguyên đơn - ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị A, trình bày:

        Ngày 27/8/2016 tại Văn phòng Công chứng Nguyễn T, vợ chồng ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị A và ông Nguyễn Văn D ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 358/2016. Theo đó, ông D chuyển nhượng cho ông S, bà A thửa đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa số: 403, tờ bản đồ: 02, tại đường Y, phường Y, quận H, thành phố HN, diện tích 60,0m². Ngày 16/10/2019, ông S, bà Au đã được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở.

        Ngày 13/9/2016 tại Văn phòng Công chứng A1, vợ chồng ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị A và ông Nguyễn Văn D ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số: 2354/2016. Theo đó, ông D chuyển nhượng cho ông S, bà A thửa đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa số: 403B, tờ bản đồ: 02, tại đường Y, phường Y, quận H, thành phố HN, diện tích 30,0m². Ngày 10/3/2017, ông Sáng, bà Sáu đã được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở.

        Thời điểm hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, ông S và bà A tiến hành việc bàn giao thửa đất với ông D và có biết vợ chồng anh Nguyễn Đình P đang sinh sống tại thửa đất. Ông S bà A đồng ý cho vợ chồng anh P tiếp tục ở lại nhà đất nhưng không lập thành văn bản.

        Nay ông S, bà A khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh P cùng vợ con trả lại toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 403 và 403B, tờ bản đồ: 02, tại đường Y, phường Y, quận H, thành phố HN.

        Bị đơn- anh Nguyễn Đình P, trình bày:

        Thửa đất  số 403B và 403 tờ bản đồ 02, tại đường Y, phường Y, quận H, thành phố HN là của bố anh - ông Nguyễn Đình C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên ông C năm 2007. Trên thửa 403 có 01 nhà 03 tầng do ông C xây dựng năm 2010. Trên thửa 403B có 01 nhà 02 tầng do anh P xây dựng năm 2014.

        Ngày 20/12/2013, ông Nguyễn Văn L đã mượn ông C 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất 403 và thừa 403B để làm thủ tục vay tiền nhưng để tên ông C là người vay với số tiền 600.000.000 đồng của Công ty cổ phần đầu tư AP do ông Nguyễn Văn Dg làm tổng giám đốc, thời gian vay 3 năm từ ngày 20/12/2013 đến 20/12/2016. Đầu năm 2014, ông D đưa nhân viên ngân hàng xuống thẩm định giá tài sản gắn liền với đất thì gia đình anh mới biết thửa đất trên của gia đình anh đã bị chuyển nhượng cho ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị S.

        Gia đình anh P đã mời ông L tới nhà nói chuyện, ông L cam kết đến ngày 20/4/2014 sẽ hoàn trả gia đình anh 2 GCNQSD đất nêu trên nhưng đến nay vẫn chưa hoàn trả cho gia đình anh.

        Anh P xác định không có việc bố anh chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 403 và 403B và bố anh cũng không phải là người vay tiền của Công ty An Phát, người vay tiền là ông Nguyễn Văn L nên anh không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

        Anh P có cung cấp bản phô tô những tài liệu để chứng minh cho lời khai của anh và cam kết bản chính anh đang giữ, gồm: Hợp đồng thỏa thuận vay vốn ngày 16/12/2013 tại Công ty Cổ phần đất tư AP giữa: Công ty CP đầu tư AP và ông Nguyễn Văn C; Bản cam kết ngày 18/3/2014 của ông Nguyễn Văn L; Biên bản cam kết rút tài sản (đất ở) của ông Nguyễn Văn L;  Bản di chúc ngày 24/12/2014 của ông C.

        Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

        - Ông Nguyễn Văn D trình bày: Năm 2013, ông có mua của ông Nguyễn Đình C 02 thửa đất số 403B và 403 tại tờ bản đồ 02, tại đường Y, phường Y, quận H, thành phố HN. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông và ông C là hợp pháp và đã được sang tên cho ông ngày 30/12/2013. Do chưa có nhu cầu sử dụng nên ông vẫn để gia đình ông C sử dụng nhà đất đó.

        Năm 2016, ông đã chuyển nhượng lại quyền sử dụng 02 thửa đất trên cho vợ chồng ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị A. Việc mua bán cũng được thực hiện đúng qui định của pháp luật. Ông S, bà A đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định.

        Quá trình giải quyết:

        Bản án sơ thẩm số 102/2023/DS-ST ngày 29/8/2023 của Toà án nhân dân quận H, quyết định:

        1. Chấp nhận đơn khởi kiện đòi quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị A đối với anh Nguyễn Đình P.

        2. Buộc anh Nguyễn Đình P và những người đang sinh sống trên thửa đất là chị Trịnh Thị U cùng các con có trách nhiệm giao trả cho ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị A toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại:

        - Thửa đất số 403, tờ bản đồ 02, tại đường Y, phường Y, quận H, thành phố HN, diện tích 60,0m² đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ218068 đứng tên ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị A do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN cấp ngày 16/10/2019.

        - Thửa đất số 403B, tờ bản đồ 02 tại đường Y, phường Y, quận H, thành phố HN, diện tích 30,0m² đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CG989979 đứng tên ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị A do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố HN cấp ngày 10/3/2017.

        Ngoài ra Toà án còn tuyên về án phí, việc thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

        Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 25/9/2023, anh P có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

        Lý do hủy án và những vấn đề cần rút kinh nghiệm:

        1. Bản án sơ thẩm thu thập chứng cứ không đầy đủ, đánh giá chứng cứ không toàn diện:

        Quá trình giải quyết vụ án, anh P trình bày: Nhà đất tại các thửa 403B và 403 tại đường Y, phường Y, quận H, thành phố HN của bố anh là ông Nguyễn Đình C. Ông C không bán nhà đất tại các thửa đất này, ông C không phải là người vay nợ tiền của Công ty AP, người vay tiền là ông Nguyễn Văn L. Vì vậy, anh không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc anh trả lại nhà đất này.

        Tại cấp sơ thẩm, anh Phương cung cấp bản phô tô của những tài liệu sau:

        1. Hợp đồng thỏa thuận vay vốn (Biên bản cam kết) ngày 16/12/2013 tại Công ty Cổ phần đất tư AP giữa Bên A: Công ty CP đầu tư AP, đại diện là Ông Nguyễn Văn D- tổng giám đốc và Bên B: Ông Nguyễn Văn C, nội dung:

        Điều 1: Bên B là chủ sở hữu 2 tài sản thửa 403, diện tích 60m2 và thửa 403B, diện tích 30m2 tại đường Y, phường Y, quận H, thành phố H. Bên B có nhu cầu vay vốn ngân hàng thông qua bên A nên 2 bên cùng thống nhất kí HĐ này làm thủ tục vay vốn.

        Điều 2, 3: Bên A cho bên B vay 600.000.000đ thời hạn 3 năm từ ngày 20/12/2013-20/12/2016 lãi 1,3%/tháng. Nếu bên B chậm trả lãi cho bên A quá 3 tháng thì bên A sẽ thông báo thu hồi khoản vay trên trước thời hạn, bên B không thanh toán được thì bên A có quyền phát mãi tài sản của bên B để thu hồi công nợ.

        Điều 4: Bên B đồng ý làm thủ tục công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất cho bên A, đại diện là ông Nguyễn Văn D đại diện đứng tên trên GCNQSD đất, bên A được sử dụng GCN để nhân danh bên B thế chấp...

        Điều 6: Bên A cam kết không mua bán, tặng cho hoặc chuyển nhượng QSD đất trên cho bất kì 1 bên nào khác trong thời gian vay vốn của bên B.

        (Văn bản có chữ kí của ông C, có đóng dấu công ty cổ phần đầu tư AP và chữ kí tổng giám đốc Nguyễn Văn D)

        2. Bản cam kết ngày 18/3/2014 của ông Nguyễn Văn L: Hiện nay tôi có mượn của anh C hai GCNQSD đất mang tên Nguyễn Đình C để mang đi thế chấp vay tiền nhưng đã sang tên cho anh Nguyễn Văn D. Tôi hứa đến ngày 20/4/2014 sẽ trả lại anh C 2 GCNQSD đất như cũ.

        3. Biên bản cam kết rút tài sản (đất ở) của ông Nguyễn Văn L: Ngày 20/3/2013 tôi và ông Nguyễn Đình C. Do có nhu cầu vay vốn ngân hàng tôi và ông C đồng ý phương thức vay vốn qua doanh nghiệp bằng tài sản của ông C. Số tiền là 600.000.000đ. Toàn bộ số tiền trên tôi đã cầm toàn bộ để thực hiện việc làm ăn, buôn bán. Tôi có nghĩa vụ rút 2 tài sản đất có diện tích 90m2 (đất ở) về cho ông C đúng hẹn. Tôi sẽ đảm bảo lại là viết giấy chuyển nhượng lại 100m2 đất ở của gia đình tôi cho ông C nếu tôi không rút được tài sản về trả ông Chính (biên bản có chữ kí của ông C, ông L và người làm chứng là ông Nguyễn Văn D).  

        Những tài liệu anh P cung cấp như trên thể hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông C với ông D chỉ là hợp đồng giả tạo nhằm che giấu hợp đồng vay tiền. Toà án sơ thẩm đã không yêu cầu anh P cung cấp bản chính những tài liệu, chứng cứ nêu trên để xem xét giải quyết là thiếu sót.

        2. Tòa án sơ thẩm không thụ lý yêu cầu phản tố và đưa thiếu người tham gia tố tụng.

        Tại cấp sơ thẩm anh P có nộp “Đơn xin khởi kiện”, nội dung: Ngày 20/12/2013, ông Nguyễn Văn L lợi dụng sự quen biết và trong lúc bố anh ốm đau, không minh mẫn đã mượn bố anh 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa 403B và thừa 403 mang tên bố anh Nguyễn Đình C để làm thủ tục thế chấp đứng tên bố anh vay vốn số tiền 600.000.000 đồng của Công ty cổ phần đầu tư AP do anh Nguyễn Văn D làm tổng giám đốc với thời gian 3 năm từ ngày 20/12/2013 đến 20/12/2016. Nhưng đến đầu năm 2014, anh D đưa nhân viên ngân hàng xuống thẩm định giá tài sản gắn liền với đất thì gia đình anh mới biết sự việc. Không có việc bố anh chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Gia đình anh đã mời ông L tới nhà nói chuyện, ông L cam kết đến ngày 20/4/2014 sẽ hoàn trả gia đình anh 2 GCNQSD đất nêu trên nhưng đến nay vẫn chưa hoàn trả cho gia đình anh. Anh P đề nghị Tòa xem xét và giải quyết sự việc nêu trên của gia đình anh.

        Như vậy thấy anh P đã có đề nghị Tòa án xem xét giải quyết vụ việc liên quan đến ông L và công ty cổ phần đầu tư AP vì anh cho rằng không có việc ông C chuyển nhượng 2 thửa đất hiện đang tranh chấp. Yêu cầu này của anh P được xác định là yêu cầu phản tố theo quy định tại khoản 2 điểm b điều 200 BLTTDS và yêu cầu này cần được giải quyết trong cùng vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được triệt để. Tòa án sơ thẩm không hướng dẫn anh P làm các thủ tục để thụ lý và giải quyết yêu cầu phản tố của anh P, không đưa ông Nguyễn Văn L và công ty cổ phần Đầu tư AP tham gia tố tụng để xem xét giải quyết yêu cầu của anh P   là thiếu sót, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự mà tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, bản án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân quận H giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

        Quá trình giải quyết vụ án Toà án cấp sơ thẩm không thụ lý yêu cầu phản tố và đưa thiếu người tham gia tố tụng; chưa đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, , từ đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đòi quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông Đào Minh S, bà Nguyễn Thị A đối với anh Nguyễn Đình P, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

        Do đó, Toà án cấp phúc thẩm đã huỷ Bản án dân sự sơ thẩm của TAND quận H theo đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân quận H giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định pháp luật.

Trần Thị Ngoan - Phòng 9

In
13 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều