Tin mới nhất

BÀN VỀ CĂN CỨ HỦY BỎ HOẶC THAY THẾ NGĂN CHẶN ĐIỀU 125 BỘ LUẬT TTHS 2015

Huỳnh Phương Linh

Biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là những quan hệ mang tính cưỡng chế bắt buộc, một bên là Cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) có quyền ra lệnh và một bên là người bị buộc tội có (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) có nghĩa vụ phải thi hành. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là biện pháp cưỡng chế do cơ quan quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị buộc tội nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa người bị buộc tội tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Biện pháp ngăn chặn là chế định pháp lý quan trọng của Bộ luật Tố tụng hình sự, là một nhóm biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc, khi áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân. Điều 109 các biện pháp ngăn chặn Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định có tất cả 08 (tám) biện pháp ngăn chặn là: biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp; biện pháp bắt (được áp dụng trong các trường hợp bắt người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can để tạm giam, bắt bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ); biện pháp tạm giữ; biện pháp tạm giam; biện pháp bảo lĩnh; biện pháp đặt tiền để bảo đảm; biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.

Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cấp đến trường hợp hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và trường hợp thay thế biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

1- Trường hợp hủy bỏ biện pháp nhăn chặn:

- Khoản 1, Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Mọi biện pháp ngăn chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

b) Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án;

c) Đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can;

d) Bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ.

- Khoản 2, Điều 125 Bộ luật TTHS quy định: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết. Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc hủy bỏ phải do Viện kiểm sát quyết định.

Theo như điều luật quy định thì cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng đối với người bị buộc tội và không được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác khi có một trong các quy định sau:

+ Một là, quyết định không khởi tố vụ án hình sự: quy định này được hiểu là biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (người tiến hành tố tụng thường gọi là giai đoạn tiền khởi tố). Người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoàn này là có thể bị áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc biện pháp tạm hoãn xuất cảnh và đối tượng bị áp dụng phải là người chưa chưa bị khởi tố nhưng có nghi vấn buộc tội, nhưng khi có quyết định không khởi tố vụ án thì cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định hủy biện pháp ngăn chặn này.

+ Hai là, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án: được hiểu là vụ án phải được chấm dứt các hoạt động tố tụng; biện pháp ngăn chặn (biện pháp tạm giam, biện pháp bảo lĩnh, biện pháp đặt tiền để bảo đảm, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và biện pháp tạm hoãn xuất cảnh) đang áp dụng đối với bị can, bị cáo thì cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định hủy biện pháp ngăn chặn ngay.

+ Ba là, đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can: Về cơ bản nội dung giống như trường hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Nhưng có điểm khác biệt là hoạt động tố tụng đối với bị can được đình chỉ phải chấm dứt, biện pháp ngăn chặn đối với bị can được đình chỉ phải được hủy bỏ ngay. Còn các bị can khác trong vụ án vẫn tiến hành tố tụng và áp dụng biện pháp ngăn chặn.

+ Bốn là, bị cáo được Tòa án tuyên không có tội, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hình phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ: Thẩm quyền ra quyết hủy bỏ biện pháp ngăn chặn là thuộc về cơ quan Tòa án và đối tượng áp dụng là bị cáo (người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử) nhưng phải được tuyên bằng bản án là không có tội, tuyên miễm trách nhiệm hình sự, tuyên miễn hình phạt, tuyên phạt tù nhưng cho hưởng án treo, tuyên phạt cảnh cáo, tuyên phạt tiền, tuyên cải tạo không giam giữ thì các biện pháp ngăn chặn đang áp dụng phải được hủy bỏ ngay.

+ Năm là, khi thấy không cần thiết: quy định này tương đối rộng, không có khái niệm cụ thể về trường hợp cần thiết nên có nhiều cách hiểu khác nhau và phụ thuộc vào ý chí của người có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ. Xuất phát từ việc không quy định rõ về trường hợp cần thiết nên dẫn đến có hai quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: trường hợp không cần thiết thì ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và không áp dụng không áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Quan điểm thứ hai cho rằng: trường hợp không cần thiết thì ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn, ít hạn chế quyền công dân hơn.

Theo quan điểm của cá nhân tôi thì đồng tình với quan điểm thứ nhất là trường hợp không cần thiết thì ra quyết định hủy biện pháp ngăn chặn và không áp dụng (thay bằng) biện pháp ngăn chặn nào khác. Với lý do là người có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đã xác định và đánh giá được bị can, bị cáo không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc không tiếp tục phạm tội, cũng như bảo đảm thi hành án. Tuy nhiên về quy định của pháp luật cần phải được sửa đổi bổ sung rõ ràng, cụ thể hơn theo hướng hủy bỏ biện pháp ngăn chặn là chấm dứt, không áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo để pháp luật được thực thi thống nhất, đồng bộ.

2- Trường hợp thay thế biện pháp ngăn chặn:

- Khoản 2, Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác. Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì việc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác phải do Viện kiểm sát quyết định. Như vậy thay thế biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đang thi hành và áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Qua thực tiễn, sau hơn 10 năm áp dụng quy định này của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì thay thế biện pháp ngăn chặn thường là áp dụng biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn, ít hạn chế quyền công dân hơn, như thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cho bảo lĩnh hoặc bằng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hoặc bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không quy định về thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn được thay thế. Tuy nhiên việc đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và nơi cư trú của bị can, bị cáo để áp dụng biện pháp thay thế của cơ quan tiến hành tố tụng có khác nhau. Có nơi thì thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn (trừ biện pháp tạm giam) theo giai đoạn tố tụng; có nơi thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn cho đến khi vụ án được đình chỉ điều tra hoặc Tóa án tuyên án bằng hình phạt cụ thể. Vấn đề này đã được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung khắc phục.

- Về biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định có 02 (hai) biện pháp ngăn chặn được thay thế biện pháp tạm giam gồm: biện pháp bảo lĩnh (Điều 121) và biện pháp đặt tiền bảo đảm (Điều 122) quy định: biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền bảo đảm đều là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Nhưng căn cứ để áp dụng biện pháp bảo lĩnh khác với căn cứ để áp dụng biện pháp đặt tiền bảo đảm, cụ thể:

+ Bảo lĩnh phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo; cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức; cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập; giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm, có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này; bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ. Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam. Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

+ Đặt tiền để bảo đảm phải căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm; bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử; thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Nếu chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì được trả lại số tiền đã đặt.

Với quy định của Điều 121, 122 khi có đủ các điều kiện nêu trên thì biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp đặt tiền để bảo đảm chỉ được áp dụng để thay thế khi bị can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam. Nói cách khác là bị can, bị cáo đang bị tạm giam nhưng có đủ điều kiện quy định tại Điều 121, 122 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì có thể được thay thế áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp đặt tiền bảo đảm.

- Trong thực tiễn thực thi pháp luật tố tụng hình sự năm 2003, cơ quan tiến hành tố tụng ít áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh hoặc cho đặt tiền bảo đảm khi bị can, bị cáo đang tạm giam mà thường áp dụng thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Theo quan điểm của tôi thì thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là chưa chính xác so với quy định của pháp luật, bởi lẽ:

+ Một là, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định chỉ có 02 (hai) trường hợp được áp dụng biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam là biện pháp cho bảo lĩnh (Điều 121) và biện pháp cho đặt tiền để bảo đảm (Điều 122). Ngoài 02 biện pháp ngăn chặn này ra thì pháp luật không quy định biện pháp ngăn chặn khác để thay thế biện pháp tạm giam.

+ Hai là, cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 123) là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can, bị cáo; mục đích của việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú là đảm bảo sự có mặt theo giấp triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng. Điều kiện để áp dụng là bị can, bị cáo có nơi cư trú cụ thể, lý lịch rõ ràng; cam kết không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép; có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Đồng thời quy định trách nhiệm của người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải: thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi.

Với các quy định nêu trên thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng đối với bị can, bị cáo chưa bị áp dụng biện pháp tạm giam, hoặc biện pháp tạm giam đã hết thời hạn, hay biện pháp tạm giam không còn hiệu lực bởi đã được cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ, hoặc chưa bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, hoặc đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng đã hết hạn.

Tóm lại, thay thế biện pháp ngăn chặn là cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền bỏ biện pháp ngăn chặn mà bị can, bị cáo đang phải thi hành và thay vào đó là biện pháp ngăn chặn khác có thể nghiêm khắc hơn hoặc ít nghiêm khắc hơn.

Trên đây là quan điểm đánh giá của cá nhân tội về căn cứ hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn. Rất mong được bạn đọc góp ý để ngày càng hoàn thiện hơn.

Đỗ Minh Tuấn - Phó Chánh Thanh TraVKSND thành phố Hà Nội

 

Bài viết trước Thẩm quyền điều tra, xét xử Vụ án hình sự xảy ra ở nhiều địa bàn cấp huyện trong cùng một tỉnh
Bài viết tiếp theo Viện KSND thành phố Hà Nội bảo vệ xuất sắc Đề tài khoa học cấp bộ về công tác giải quyết án ma túy
In
16884 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.