TRAO ĐỔI NGHIỆP VỤ: MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI NGHIÊN CỨU HỒ SƠ VỤ ÁN LY HÔN

05/05/2017 08:36 | 13373 | 0

          Thực hiện Kế hoạch Công tác năm 2017 của VKSND thành phố, trong đó xác định khâu đột phá về dân sự là: “Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, HNGĐ, kinh doanh thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật, trọng tâm là nâng cao chất lượng bài phát biểu của KSV tại phiên tòa, phấn đấu tăng tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm được chấp nhận đạt trên 90% và tỷ lệ kháng nghị trên số bản án sửa, hủy có trách nhiệm của VKS đạt trên 20%” và Chương trình công tác của Phòng kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình xác định khâu đột phá là Nâng cao chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình của Kiểm sát viên để tham gia phiên tòa sơ thẩm, nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm, đưa tỷ lệ kháng nghị trên số án sửa, hủy có trách nhiệm của Viện kiểm sát đạt từ 30% trở lên. Để đạt được mục tiêu kế hoạch, chương trình công tác đã để ra, đòi hỏi  các kiểm sát viên tập trung nghiên cứu kỹ hồ sơ các vụ án dân sự, HNGĐ; các quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, áp dụng pháp luật, đồng thời vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của bản thân để làm tốt công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự, HNGĐ theo yêu cầu đề ra.

          Trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, điều cơ bản là phải làm tốt công tác kiểm sát giải quyết án ở giai đoạn sơ thẩm, đây là giai đoạn quan trọng nhất xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án, có ý nghĩa quyết định đến việc ra quyết định cuối cùng của các cấp Tòa án. Bởi lẽ, đây là giai đoạn thu thập tài liệu, chứng cứ đầy đủ nhất, từ việc các đương sự tự trình nộp tài liệu chứng cứ, đến việc Tòa án tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết vụ án một các khách quan, toàn diện và triệt để nhất.

          Trong công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự nói chung chia làm 2 nhóm tranh chấp lớn, đó là: những tranh chấp, yêu cầu về dân sự nói chung và nhóm những tranh chấp, yêu cầu liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình.

Trong các vụ án hôn nhân và gia đình có nhiều dạng tranh chấp khác nhau quy định tại Điều 28; 29 BLTTDS như: tranh chấp về ly hôn; thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung sau ly hôn; hủy kết hôn trái pháp luật, xác định cha cho con...nhưng điển hình nhất vẫn là các vụ án tranh chấp về ly hôn, trong vụ án ly hôn có thể phải giải quyết nhiều mối quan hệ khác nhau như quan hệ về tình cảm, về tài sản, về nuôi con và nghĩa vụ trả nợ... trong bài viết này tác giả đề cấp đến việc nghiên cứu hồ sơ các vụ án ly hôn theo yêu cầu của một bên đương sự ở giai đoạn sơ thẩm.

          Việc nghiên cứu kỹ hồ sơ các vụ tranh chấp về ly hôn làm cơ sở cho kiểm sát viên dự thảo bài phát biểu của mình, kết hợp với các tình huống phát sinh tại phiên tòa để KSV hoàn thiện bài phát biểu, đề nghị hướng giải quyết vụ án, đó chính là thành quả của KSV khi thực hiện nhiệm vụ, thể hiện chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án dân sự theo chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát.

          Trong vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình phải đồng thời giải quyết đồng thời 3 mối quan hệ: về tình cảm vợ chồng, về việc nuôi con chung và tài sản chung vợ chồng. Trong đơn khởi kiện của đương sự phải thể hiện quan điểm về 3 mối quan hệ trên. Đó chính là những đặc thù của loại án HNGĐ.

           Một số kỹ năng khi nghiên cứu hồ sơ tranh chấp về ly hôn.

I. Về tố tụng:

1. Xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án: chú ý đến yêu cầu khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện của nguyên đơn để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án. Có thể là Tòa án nơi bị đơn cư trú, hoặc nơi bị đơn làm việc, hoặc nơi nguyên đơn cư trú (điều 39; 40 BLTTDS)

          Trong vụ án HNGĐ, Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn cư trú theo điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS. Như vậy, phải xác định được nơi cư trú hiện tại của bị đơn để xác định đúng thẩm quyền giải quyết của Tòa án vì đối tượng cơ bản của vụ án ly hôn là tình cảm vợ chồng. Do vậy, trong các vụ án phải giải quyết về tài sản chung vợ chồng, mà tài sản đó là bất động sản, thì thẩm quyền của Tòa án vẫn là Tòa án nơi cư trú của bị đơn chứ không phải là nơi có BĐS (phân biệt với điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS).

          Trường hợp không biết bị đơn cư trú ổn định ở đâu (trường hợp bị đơn thường xuyên thay đổi nơi ở gây khó khăn cho việc xác định nơi cư trú) thì NĐ có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn làm việc để thụ lý giải quyết.

          Trong trường hợp các bên thỏa thuận được Tòa án nơi nguyên đơn cư trú giải quyết thì phải có văn bản thỏa thuận theo điểm b khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

          Trường hợp không xác định được nơi cư trú, làm việc của bị đơn thì có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết theo Điều 40 BLTTDS.

          Khi phát biểu về thẩm quyền giải quyết của Tòa thì KSV cần nêu được những căn cứ như trên đã nêu để xác định Tòa án thụ lý đúng hay không đúng thẩm quyền.

          2. Xác định tính hợp pháp, hợp lệ của tài liệu, chứng cứ:

Chú ý những tài liệu mà đương sự trình nộp và những tài liệu Tòa tiến hành xác minh, thu thập:

- Giấy đăng ký kết hôn.

- Giấy khai sinh của con chung (nếu có)

- Bản tự khai của đương sự

- Hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân của đương sự.

- Xác định nơi cư trú của bị đơn

- Lời khai của các đương sự.

- Các tài liệu chứng minh về mâu thuẫn vợ chồng như có hành vi bạo hành gia đình, tài liệu về việc ĐS ngoại tình (nếu có)…

- Lời khai của những người thân trong gia đình: bố mẹ, anh chị em, con của ĐS.

- Xác minh tại tổ dân phố, đoàn thể phụ nữ..

- Những tài liệu xác định tài sản chung vợ chồng

- Tài liệu xác định nghĩa vụ chung vợ chồng

          Những tài liệu có liên quan đến yêu cầu khởi kiện như trên cần phải đảm bảo tính chứng minh, hợp pháp, được thu thập đúng trình tự tố tụng. tài liệu phải là bản chính hoặc bản sao có chứng thực hoặc công chứng.

          3. Xem xét các quá trình tố tụng của Tòa án, trước khi mở phiên tòa.

          Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử thì mọi hoạt động tố tụng đều do Thẩm phán tiến hành: từ thụ lý vụ án, tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, tiến hành phiên hòa giải và công khai tài liệu, chứng cứ…chỉ đến khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì KSV mới có thể cập nhật đầy đủ hồ sơ vụ án, KSV phải nghiên cứu, đánh giá xem quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán đã đầy đủ chưa, để thực hiện yêu cầu Tòa án bổ sung về tố tụng (như đưa thêm người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia vụ án…) hay xác minh thu thập thêm tài liệu, chứng cứ của vụ án để đảm bảo việc giai quyết vụ án được triệt để. Trong phần này, KSV nên chú ý một số vấn đề sau:

          - Tòa thụ lý có đúng thẩm quyền không?

          - Thẩm phán xác định đầy đủ tư cách người tham gia tố tụng chưa: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (có yêu cầu độc lập hay không)?

          + Đối với người liên quan là người cho vợ chồng vay tiền, người đang nhận tài sản thế chấp là tài sản chung vợ chồng…thì bắt buộc Tòa phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền và nghĩa vụ liên quan, phải làm rõ yêu cầu của họ trong vụ án, kể cả trong trường hợp họ không có yêu cầu giải quyết trong vụ án, vì khi vợ chồng ly hôn thì Tòa án phải xác định quyền và nghĩa vụ của các bên sau ly hôn để họ thực hiện với người thứ ba.

          - Trường hợp người có QLNV liên quan có đề nghị giải quyết yêu cầu của mình thì Thẩm phán phải thực hiện thụ lý yêu cầu độc lập đó theo thủ tục chung (như yêu cầu của người chủ nợ; người nhận thế chấp tài sản chung của vợ chồng…); trường hợp Thẩm phán đã giải thích, hướng dẫn họ nộp đơn yêu cầu độc lập để giải quyết trong vụ án mà họ không thực hiện thì phải thể hiện rõ bằng văn bản lưu trong hồ sơ.

          4. Xác định phản tố hay không phản tố

          Trong vụ án ly hôn có một vấn đề nảy sinh ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đương sự, đó là trường hợp nguyên đơn khi nộp đơn ly hôn thì chỉ yêu cầu giải quyết về tình cảm, không yêu cầu giải quyết về tài sản (về con cái không phải giải quyết); phía bị đơn thì không đồng ý ly hôn, nhưng có đề nghị nếu Tòa án mà thụ lý giải quyết yêu cầu ly hôn của nguyên đơn thì Tòa án phải giải quyết cả về phần tài sản chung vợ chồng. Yêu cầu của bị đơn có phải là yêu cầu phản tố hay không đến nay vẫn còn có những quan điểm trái chiều.

          Quan điểm thứ nhất cho rằng: đề nghị của bị đơn được coi là phản tố, vì nguyên đơn không đưa ra yêu cầu này, và do đó họ phải nộp tạm ứng án phí có giá ngạch đối với yêu cầu chia tài sản chung và những chi phí khác liên quan đến giải quyết tài sản chung (như chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí định giá tài sản) theo quy định, nếu bị đơn không nộp thì Tòa không thụ lý giải quyết yêu cầu về tài sản.

          Quan điểm thứ hai cho rằng đó không phải là phản tố vì nó không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 200 BLTTDS năm 2015, vì giữa hai yêu cầu trên không có sự bù trừ nghĩa vụ hoặc dẫn đến loại trừ yêu cầu của bên kia. Về nguyên tắc, khi Tòa giải quyết vụ án HNGĐ thì đồng thời phải giải quyết cả các mối quan hệ liên quan là tài sản chung và con chung. Do vậy, bị đơn không phải nộp tiền tạm ứng án phí và các chi phí khác đối với yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng.

          Về vấn đề này, chúng ta nên tham khảo thêm tài liệu “Một số vấn đề trao đổi tại Hội nghị tập huấn thẩm phán, hội thẩm ngành Tòa án năm 2010” của Tòa án thành phố Hà Nội, trong đó có nêu: “Trong vụ án HNGĐ nếu nguyên đơn không yêu cầu giải quyết tài sản mà bị đơn có yêu cầu thì Tòa án vẫn phải giải quyết và trong quá trình giải quyết bị đơn yêu cầu định giá mà không có tiền để nộp tạm ứng chi phí định giá thì Tòa giải thích cho nguyên đơn là vụ án ly hôn phải giải quyết đồng thời cả 3 mối quan hệ, không thể tách rời quan hệ tài sản thành vụ kiện khác, tức là không thể giải quyết theo yêu cầu của nguyên đơn về 2 mối quan hệ (tình cảm và con cái), muốn giải quyết vụ án thì nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá và thông báo cho nguyên đơn nộp tiền tạm ứng chi phí định giá, nếu nguyên đơn không nộp thì thuộc trương hợp không đủ điều kiện khởi kiện và đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn”. Có làm như vậy thì mới bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên đương sự, nhất là bên yếu thế, đảm bảo việc giải quyết vụ án được triệt để, có tình, có lý, phù hợp với thực tiễn và công bằng xã hội.

          Tôi đồng tình với quan điểm thứ hai, vì thực tiễn cho thấy, nhiều vụ án bên nguyên đơn là bên đang quản lý tài sản chung vợ chồng, nên họ chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết về tình cảm, nghĩa là yêu cầu Tòa giải quyết cho họ được ly hôn chứ không yêu cầu giải quyết về phần tài sản. Phía bị đơn không quản lý tài sản nên nếu sau ly hôn thì họ rất khó thực hiện quyền của mình đối với tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng. KSV khi nghiên cứu vụ án nếu gặp trường hợp trên thì trao đổi với thẩm phán để xử lý vụ án cho phù hợp với quy định của pháp luật và nguyên tắc công bằng xã hội.

         

          II. Về nội dung

          1. Đánh giá, xác định mâu thuẫn vợ chồng.

          Trường hợp bị đơn không đồng ý ly hôn thì phải xác định rõ quan hệ về tình cảm vợ chồng có mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn được, dẫn đến mục đích hôn nhân không đạt được hay không?

          Tuy nhiên, việc xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng chưa, hạnh phúc gia đình của đương sự đã tan vỡ chưa đôi khi còn mang tính chủ quan của người tiến hành tố tụng, trong nhiều vụ án ly hôn, mâu thuẫn vợ chồng thể hiện ra bên ngoài rất khó xác định, nhất là đối với những người có học thức cao, người có địa vị trong xã hội, trong các cơ quan nhà nước…Vì vậy, để đảm bảo cho việc xác định một cách chính xác, khách quan về mâu thuẫn vợ chồng cần phân tích các tài liệu đã thu thập trong hồ sơ vụ án. Trước hết thể hiện ở lời trình bày của các đương sự, các tài liệu chứng cứ do đương sự nộp: chú ý về nguyên nhân dẫn đến xung đột tình cảm vợ chồng; cách sống, sinh hoạt, cách xử lý của mỗi bên khi giải quyết mâu thuẫn, xung đột đó; thời gian họ sống ly thân; sự tác động của các yếu tố bên ngoài (như cách xử sự của những người thân trong gia đình, nhất là khi họ sống chung trong gia đình lớn, có ông, bà, và anh chị em của vợ hoặc chồng…). Trong trường hợp này thì cần thiết phải thu thập thêm một số tài liệu, chứng cứ khác như: lời khai của những người thân cùng sống trong gia đình với đương sự (bố, mẹ của vợ hoặc chồng), lời khai của các con, xác minh tại tổ dân phố nơi đương sự sinh sống, các tổ chức, đoàn thể khác… (nếu thấy chưa có những tài liệu trên thì KSV phải có văn bản đề nghị Thẩm phán thu thập, xác minh lấy lời khai của họ để có thêm tài liệu đánh giá, xác định tình trạng mâu thuẫn của vợ chồng, giúp KSV đánh giá đúng bản chất, mức độ của mâu thuẫn của vợ chồng để phát biểu quan điểm tại Tòa một cách khách quan).

          2. Xác định người trực tiếp nuôi con chung.

          Trường hợp có con chung là người chưa thành niên, từ 7 tuổi trở lên thì phải ghi ý kiến của cháu bé xem cháu muốn ở với bố hay ở với mẹ, việc ghi ý kiến của cháu bé là yêu cầu bắt buộc theo qui định của Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, việc lấy ý kiến của cháu bé cũng là để tham khảo, không phải là bắt buộc phải thực hiện theo ý kiến của cháu bé, vì việc giao cháu bé cho ai trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng phải là đảm bảo cho cháu bé có điều kiện phát triển tốt nhất có thể.

          Khi xác định giao cháu bé cho ai chăm sóc phải căn cứ vào điều kiện của người đó về: thu nhập hàng tháng, nhà ở, công việc của người đó ảnh hưởng như thế nào đến việc chăm sóc hàng ngày cho cháu bé, có xem xét về sự giúp đỡ của hai bên gia đình các đương sự trong việc nuôi cháu bé.

          3. Chia tài sản chung vợ chồng theo quy định của pháp luật.

          Vấn đề chia tài sản khi ly hôn có thể được giải quyết ngay trong cùng vụ án, cũng có thể được giải quyết sau khi ly hôn nếu các bên có yêu cầu (chỉ khi cả hai bên khôgn yêu cầu chia tài sản chung thì mới không thụ lý giải quyết).

          Đây là một vấn đề khó trong giải quyết án hôn nhân gia đình. Khi xem xét về tài sản chung vợ chồng thì cần xác định về nguồn gốc hình thành: tài sản đó được hình thành trước, trong hay sau thời kỳ hôn nhân, công sức đóng góp của các đương sự trong sự hình thành, phát triển của khối tài sản đó.

          Theo nguyên tắc thì tài sản chung vợ chồng là tài sản chung hợp nhất, khi ly hôn mỗi bên được hưởng ½ giá trị tài sản. Trường hợp một bên đi làm, còn một bên ở nhà chăm lo nội trợ, việc nhà thì cũng được coi như lao động có thu nhập (điều 95 luật hôn nhân và gia đình). Tuy nhiên, khi chia tài sản cũng cần xem xét đến hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản và công sức đóng góp vào sự hình thành, duy trì và phát triển khối tài sản đó để đảm bảo khách quan, toàn diện.

          Trước hết KSV phải xác định được tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng là những gì, đối với tài sản riêng thì bên có tài sản riêng phải chứng minh được tài sản đó là của riêng mình mà chưa nhập vào khối tài sản chung vợ chồng.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cụ thể như sau:

+ Tài sản chung của vợ chồng (Điều 33): 

Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

+ Tài sản riêng của vợ, chồng (Điều 43):

Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.

          Trên cơ sở xác định được tài sản chung của vợ chồng, thì KSV căn cứ hoàn cảnh của từng bên, công sức đóng góp về việc tạo dựng, duy trì và phát triển tài sản để phát biểu đường lối giải quyết và đánh giá quyết định của Tòa án có phù hợp không, trên cơ sở đó để ban hành kháng nghị theo quy định.

          Chú ý: phải phân tích công sức đóng góp của các đương sự trong quá trình chung sống vợ chồng (về thời gian chung sống vợ chồng, thời gian quản lý, duy trì và phát triển tài sản đó để tính thành giá trị khi chia tài sản, đối với tài sản là nhà xưởng, máy móc là phương tiện sản xuất thì cần căn cứ vào hiện tại ai là người đang quản lý, điều hành và xem xét phương án sử dụng, khai thác tài sản của các đương sự để quyết định giao cho họ tiếp tục phát triển sản xuất, lao động phát huy giá trị sản xuất của chúng phục vụ đời sống của họ sau ly hôn. Trong nhiều vụ án tòa án cấp sơ thẩm không phân tích, đánh giá phần công sức đóng góp của các bên đã bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy án để xét xử lại.

          4. Về nghĩa vụ chung vợ chồng: Trong vụ án ly hôn nếu các bên trình bày vợ chồng có nghĩa vụ đối với bên thứ ba (thường là nghĩa vụ trả nợ tiền vay, nghĩa vụ thế chấp, bảo lãnh cho bên thứ ba) thì cần phải xác định đó có phải là nghĩa vụ chung hay nghĩa vụ riêng. Nếu là nghĩa vụ chung thì cần phải xác định trách nhiệm thanh toán của mỗi bên sau ly hôn đối với người thứ ba. Do vậy, yêu cầu cần thiết và bắt buộc là phải đưa người thứ ba-người có quyền đối với nghĩa vụ chung vợ chồng tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời Thẩm phán thụ lý phải hướng dẫn họ viết đơn yêu cầu độc lập đề nghị các đương sự (trong vụ ly hôn) phải thực hiện nghĩa vụ để Tòa án giải quyết ngay trong cùng vụ án. Trường hợp họ chưa có yêu cầu độc lập ngay thì cũng phải thể hiện bằng văn bản (có thể là đơn hoặc thể hiện trong bản tự khai của họ) làm căn cứ để Tòa giải quyết. Trong khi nghiên cứu hồ sơ, nếu phát hiện thấy Tòa án không họ vào tham gia tố tụng thì KSV phải có văn bản yêu cầu Thẩm phán bổ sung họ vào tham gia tố tụng mới đầy đủ, đảm bảo việc giải quyết triệt để vụ án, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

          Về quyền lợi chung của vợ chồng đối với người thứ ba: là trường hợp vợ chồng có quyền yêu cầu người khác thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với họ (trường hợp họ cho người thứ ba mượn, vay, thuê tài sản) thì tòa án phải đưa người thứ ba đó vào tham gia tố tụng để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên sau khi họ ly hôn (nhất là bên thứ ba - bên có nghĩa vụ đối với vợ chồng để họ có thể thực hiện nghĩa vụ của mình).

          5. Về án phí trong vụ án ly hôn: Tùy thời điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện của đương sự để áp dụng án phí trong vụ án ly hôn trong từng thời điểm cụ thể, vì hiện nay có nhiều vụ án bị hủy nhiều lần, mà lần đầu Tòa thụ lý đã lâu, trong khi có nhiều văn bản quy định về án phí, lệ phí tòa án được ban hành, cụ thể áp dụng như sau: Nghị định 70/NĐ-CP năm 1997 được áp dụng đối với những vụ án thụ lý trước ngày 01/7/2009; Pháp lệnh số 10 năm 2009 quy định về án phí đói với những vụ án thụ lý sau ngày 01/7/2009 và Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội đối với những vụ án thụ lý sau ngày 01/01/2017.

          Tuy nhiên chú ý một số điểm sau:

          Trong vụ án ly hôn có yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng, thì ngoài việc các đương sự chịu án phí vụ án ly hôn không có giá ngạch, họ còn phải chịu án phí chia tài sản như vụ án có giá ngạch tương ứng với phần tài sản mà họ được chia (điểm b, khoản 5 Điều 27 NQ326/2016), còn đối với phần tài sản họ không được chia thì không phải chịu án phí, kể cả những tài sản mà họ nêu ra nhưng không được xác định là tài sản chung vợ chồng để chia, đây là đặc trưng riêng của án HNGĐ (tương tự như án phí trong chia thừa kế), điều này phân biệt với việc tranh chấp tài sản trong các vụ án dân sự thì các bên phải chịu án phí đối vơi phần yêu cầu không được chấp nhận (khoản 1 Điều 26 NQ 326). Thực tiễn trong nhiều vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản chung vợ chồng hay không, và thường xảy ra là tranh chấp về nhà đất đối với những vụ án mà vợ chồng ở chung với ông bà, bố mẹ (bên vợ, hoặc bên chồng), một bên thì bảo là bố mẹ đã cho nhà đất, bên kia thì không công nhận. Khi xét xử, do Tòa án xác định nhà đất đó không phải là tài sản chung vợ chồng nên không chia nhưng đồng thời lại buộc bên đưa ra yêu cầu chia phải chịu án phí có giá ngạch đối với tài sản đó. Quyết định này là không phù hợp với loại án HNGĐ như trên đã phân tích, và khi xét xử phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm đã sửa về án phí theo qui định pháp luật.

          Kết luận: Khi nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử các vụ án ly hôn nói riêng và vụ án dân sự nói chung, Kiểm sát viên phải nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và khách quan những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ; chủ động yêu cầu Tòa án bổ sung, khắc phục những vi phạm về tố tụng, thu thập thêm tài liệu chứng cứ nhằm giải quyết triệt để vụ án, đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đảm bảo cho hoạt động của Tòa án, của các đương sự được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

          Trong khuôn khổ bài viết, tác giả xin chia sẻ một số kinh nghiệm với mục đích trao đổi với bạn đọc nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình theo chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát. Rất mong nhận được nhiều chia sẻ, trao đổi thêm của bạn đọc.

   

Trần Lương Tuấn

Phó trưởng Phòng 9

HÌNH ẢNH

ĐĂNG NHẬP

Website liên kết

Thống kê truy cập

Đang truy cập Đang truy cập : 328

Tổng lượt truy cập Tổng lượt truy cập : 1551691